Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG, PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI

TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG, PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠIMột nội dung quan trọng của Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới là vấn đề Lịch sử nhà nước và pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại. Đây là một giai đoạn hình thành những nhà nước, những sản phẩm pháp điển hóa đầu tiên, mà hình thức cũng như nội dung của chúng ảnh hưởng lớn đến thời trung đại và cận, hiện đại sau này trong một chiều dài lịch sử phát triển. Vấn đề quan trọng là sau khi nghiên cứu từng nhà nước điển hình ở hai khu vực này, sinh viên phải chỉ ra được những đặc điểm cơ bản, những điểm giống và khác, cũng như cơ sở tạo nên sự tương đồng và khác biệt ấy dưới góc nhìn của nhà luật học. Phần tổng hợp dưới đây chỉ dừng lại ở mức nêu vấn đề để những bạn sinh viên quan tâm khi có điều kiện tiếp tục cùng tìm hiểu, nghiên cứu chứ không làm thay những gì các bạn phải làmChớ vội "copy + paste" các nội dung này rồi nhân bản thành các bài tiểu luận hoặc bài kiểm tra na ná giống nhau, điều này là vô ích vì những vấn đề chính cần phải giải thích làm rõ, tác giả về cơ bản đã không/ chưa giải đáp mà nêu thành câu hỏi, để trong dấu ngoặc vuông, chữ màu xanh. Hi vọng những câu hỏi này phần nào sẽ kích thích các bạn sinh viên tư duy, thậm chí phản biện lại và rút ra những cơ sở lý luận cũng như những bài học kinh nghiệm cho hiện tại.
I. PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY


Thuật ngữ "Phương Đông" ban đầu từ quan niệm của người phương Tây. Người Châu Âu luôn coi mình là trung tâm nên Phương Đông là thuật ngữ dùng để chỉ toàn bộ khu vực Châu Á nằm ở Phía đông của Phương Tây và được chia thành Cận Đông, Trung Đông và Viễn Đông.


Đến nay trong giới khoa học giới hạn địa lý của Phương Đông đến đâu vẫn chưa hoàn toàn thống nhất. Do vậy, mỗi khi bàn đến Phương Đông thông thường người ta hay đưa ra một khung không gian cụ thể để định vị đối tượng mà người ta muốn nói. Các nhà sử học của Việt Nam hầu như tương đối thống nhất với ý kiến cho rằng phạm vi không gian phương Đông có tầm ảnh hưởng lớn đến Việt Nam là hai vùng Đông Bắc Á (mà nhiều người còn gọi là Đông Á) và Đông Nam Á. [Tìm trên bản đồ và xác định khu vực Đông Á và Đông Nam Á hiện nay gồm những quốc gia nào?]


Những nhà nước ra đời sớm ở Phương Đông thời cổ đại là Ai cập cổ đại, Lưỡng Hà cổ đại, Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại[Tìm trên bản đồ vị trí địa lý tương ứng? Khu vực này ngày nay là những quốc gia nào?]. Đây là những nhà nước ra đời sớm cả về thời gian và không gian, xuất phát từ đặc điểm đặc thù về tự nhiên, kinh tế, xã hội.


Khái niệm Phương Tây được hiểu là Châu Âu. Các nhà nước cổ đại ở Phương Tây tiêu biểu là các nhà nước Hy Lạp và La Mã. Về địa lý, hai nhà nước này được hình thành chủ yếu trên 2 bán đảo là bán đảo Ban căng và bán đảo Italia (ngoài ra còn có các đảo nhỏ khác). Hai bán đảo này đều nhìn ra Địa Trung Hải, đối diện với các nước Tây Á. [Tìm trên bản đồ vị trí địa lý tương ứng? Khu vực này hiện nay là lãnh thổ của những quốc gia nào?].


Về mặt thời gian, khái niệm thời cổ đại được hiểu theo từng nhà nước, từng khu vực khác nhau. Ví dụ: Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại tồn tại từ khoảng 4000 năm TCN đến năm 539 TCN chế độ xã hội này bị đế quốc Ba Tư xâm lược và diệt vong. Nhà nước Ấn Độ cổ đại tồn tại từ khoảng 2000 năm TCN đến cuối thế kỷ 3 TCN. Ở Phương Tây, nhà nước La Mã cổ đại ra đời muộn hơn vào khoảng thế kỷ 6 TCN và tồn tại đến năm 476 SCN khi đế quốc La Mã bị diệt vong.


II. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG CƠ BẢN 

1. Về nhà nước

Về bản chất: theo học thuyết Mác - Lênin, quyền lực chính trị trong các nhà nước ở Phương Đông và Phương Tây cổ đại thuộc về giai cấp chủ nô. Cơ cở kinh tế của nhà nước là dựa trên chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với toàn bộ tư liệu sản xuất và nô lệ. Cơ sở xã hội là một hệ thống kết cấu giai cấp khá phức tạp trong đó về cơ bản có hai giai cấp chủ nô và nô lệ 

Về chức năng: Hoạt động chủ yếu của nhà nước thời kỳ này là bảo vệ, củng cố chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất,tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thờiphòng thủ, bảo vệ đất nước và tiến hành các hoạt động ngoại giao, buôn bán với các quốc gia khác

- Về hình thức nhà nước: Trước hết xét về hình thức chính thể thì các nhà nước ở Phương Đông cổ đại được tổ chức theo chính thể quân chủ chuyên chế chủ nô với các mức độ tập trung quyền lực khác nhau (Ví dụ: Trung Quốc cổ đại, Ấn Độ cổ đại, Ai cập cổ đại, Lưỡng Hà cổ đại). Ở Phương Tây cổ đại, các nhà nước được tổ chức chủ yếu theo chính thể quân chủ và cộng hòa chủ nô Các nhà nước cộng hòa chủ nô tồn tại dưới hai dạng thức là cộng hòa dân chủ chủ nô và cộng hòa quý tộc chủ nô (Ví dụ nhà nước Xpác (nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô); nhà nước Aten (nhà nước dân chủ chủ nô); nhà nước La mã (cộng hoà và quân chủ chuyên chế). Hình thức cấu trúc cơ bản của nhà nước chủ nô là cấu trúc đơn nhất, tuy nhiên ở Phương Tây xuất hiện các nhà nước thành bang có tính tự trị cao .Chế độ chính trị phổ biến thời kỳ này là chế độ độc tài chuyên chế với việc áp dụng công khai các biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước bằng bạo lực và phản dân chủ, tuy nhiên cũng có nhà nước áp dụng những biện pháp dân chủ sơ khai, điển hình như thiết chế Hội nghị công dân, việc bỏ phiếu bằng vỏ sò ở nhà nước Aten ở Hy Lạp cổ đại.

Về tổ chức bộ máy nhà nước:Bộ máy nhà nước ở cả Phương Đông và Phương Tây đã bao gồm các cơ quan chuyên trách với chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong bộ máy đều có một bộ phận quan trọng là các cơ quan quản lý về quân sự, cảnh sát [Nêu rõ tên những cơ quan nhà nước cụ thể? 

2. Về pháp luật 
Về tính giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật

Pháp luật (hiểu theo nghĩa hẹp là những Bộ luật thành văn) thường ra đời muộn hơn nhiều thời điểm xuất hiện nhà nước.Theo học thuyết Mác - Lênin, thời kỳ nào và ở đâu thì pháp luật về cơ bản cũng thể hiện và bảo vệ lợi ích trước hết của giai cấp thống trị và thời cổ đại cũng không phải ngoại lệ. Thời kỳ này bản chất pháp luật là pháp luật chủ nô có mục đích thiết lập một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp chủ nô. Ngoài tính giai cấp, pháp luật chủ nô cũng có vai trò xã hội quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội. Tính xã hội của nhà nước cũng như pháp luật ở Phương Đông trong một chừng mực nhất định còn có trước và tỏ ra trội vượt hơn cả tính giai cấp. Ví dụ: Ở phần mở đầu của Bộ luật, Hammurabi tuyên bố: “Vì hạnh phúc của loài người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm – Hammurabi, một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samát sai xuống dân đen, tỏa ánh sáng khắp muôn dân.” Hoặc ở phần kết của Bộ luật, Hammurabi khẳng định lại mục đích của Bộ luật: “Để cho kẻ mạnh không hà hiếp kẻ yếu; để cho những người cô quả có thể nương tựa ở thành Babilon…; để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định; để cho những kẻ thiệt thòi được trình bày lẽ phải…Nếu kẻ nào thi hành triệt để bộ luật này thì sẽ được các thần phù hộ, trái lại nếu người nào không nghiêm chỉnh thi hành hoặc sửa đổi bộ luật thì sẽ bị thần linh trừng phạt”. 

Bảo vệ chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, hợp pháp hóa các hình thức bóc lột của chủ nô đối với nô lệ. 

Pháp luật ghi nhận và bảo vệ chặt chẽ quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất được thể hiện trong Bộ Luật Hammurabi, Luật 12 Bảng ở La Mã sơ kỳ nền cộng hòa, Bộ pháp điển Corpus iuris Civilis của Hoàng đế Justinian. Cụ thể pháp luật nhiều nước thời kỳ này cho phép tra tấn, giam cầm con nợ để yêu cầu trả nợ. Các hành vi mua bán, chuyển nhượng tài sản của chủ tư hữu cũng được pháp luật nhiều nước quy định chặt chẽ nhằm tránh sự lừa dối, gian lận làm phương hại đến quyền tư hữu (Ví dụ: Điều 2 Bảng IIILuật 12 Bảng qui định: „Người chủ nợ có thể cầm tay con nợ và đưa con nợ đến Tòa. Nếu con nợ không trả được nợ theo phán quyết của Tòa và cũng không có ai bảo lãnh cho anh ta, chủ nợ có thể tống giam con nợ"). Đồng thời pháp luật chủ nô cũng công khai tuyên bố tình trạng vô quyền của nô lệ và thừa nhận nhiều hình thức bóc lột, hình thức tra tấn tàn nhẫn của chủ nô đối với nô lệ (Điều 3 Bảng III Luật 12 Bảng quy định: "Đến ngày phiên chợ thứ ba, các chủ nợ có thể tùng xẻo con nợ không trả được nợ. Nếu xử quá mức, họ cũng không bị tội" 
Ghi nhận tình trạng phân biệt đẳng cấp trong xã hội. 

Pháp luật cho phép những chủ nô giàu có thuộc các đẳng cấp cao trong xã hội có những đặc quyền về kinh tế và chính trị. Ví dụ: Điều 1 Bảng X Luật 12 Bảng qui định cấm kết hôn giữa quí tộc và bình dân: "Cấm kết hôn giữa người bình dân và quí tộc"

- Ghi nhận và bảo vệ chế độ gia trưởng.

Pháp luật của nhiều nhà nước thời kỳ này ghi nhận quyền tuyệt đối của người gia trưởng đối với tài sản trong gia đình và địa vị chi phối của người gia trưởng đối với các thành viên khác của gia đình. Thí dụ, ở Bộ luật Hammurabi nếu không có con, người chồng có quyền ly dị hoặc bán vợ hoặc lấy vợ lẽ; nếu bắt được vợ ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông. Ngược lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thôi. Điều 129 qui định : "Nếu vợ của dân tự do ngủ với người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và ném xuống sông" 

- Hình phạt mang nặng tính trừng trị, ít chứa đựng tính chất giáo dục và cảm hóa.

Pháp luật thời kỳ này hình sự hóa hầu hết các vi phạm, kể cả các vi phạm trong quan hệ dân sự . Các qui phạm pháp luật đặc biệt là ở Phương Đông thời kỳ cổ đại thường mang tính hàm hỗn (hầu hết các điều luật đều kèm theo chế tài).Hình phạt được áp dụng phổ biến nhất là tử hình bằng rất nhiều hình thức khác nhau như: ném đá cho đến chết, buộc đá ném xuống sông, ném người vào vạc dầu, chặt người ra thành nhiều mảnh, thiêu chết, chôn sống, treo cổ... Các hình phạt dã man khác cũng được áp dụng cho các hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hơn như: chọc mù mắt, khắc chữ vào mặt, chặt chân tay, cắt lưỡi, bắt đi trên than hồng... Pháp luật chủ nô còn cho phép tra tấn nhục hình phạm nhân, cho phép trả thù ngang bằng (Ví dụ: Điều 2 Bảng VIII Luật 12 bảng: "Nếu ai gây thương tích làm tàn tật người khác và không bồi thường, thì việc trả thù ngang bằng là hợp pháp"). Trong nhiều trường hợp, pháp luật chủ nô cho phép giết cả những người không liên quan đến hành vi phạm tội. (Ví dụ: Điều 38 Bộ luật Hammurabi qui định: " Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc Điều 39 Bộ luật Hammurabi: "Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo")

 III. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN 

1. Điều kiện tự nhiên

Các nhà nước ở Phương Đông ra đời sớm ở lưu vực các con sông lớn (Sông Nin ở Ai Cập, Sông Ti-grơ và Ơ-ph-rát ở Lưỡng Hà, Sông Hằng Hà ở Ấn Độ, Sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc). Đây là nơi thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp phát triển.

Trong khi đó về điều kiện tự nhiên, ở Phương Tây, các nhà nước Hy Lạp và La Mã được hình thành chủ yếu trên 2 bán đảo là bán đảo Ban-căng và bán đảo I-ta-li-a. Đây là nơi không thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp, nhưng thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp 
2. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất 

Ở Phương Đông, nhà nước Phương Đông ra đời trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển thuộc giai đoạn đồ đồng. Kinh tế tự nhiên, trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo. Ở Phương Tây, nhà nước ra đời trên cơ sở lực lượng sản xuất đã phát triển thuộc giai đoạn đồ sắt 

3. Thời điểm xuất hiện nhà nước

Các nhà sử học cho rằng khoảng thế kỷ 7 TCN, tức là mãi sau hơn 2000 năm, sau sự xuất hiện của nhà nước Phương Đông cổ đại, nhà nước Phương Tây mới ra đời (Cụ thể: nhà nước thành bang của Hy Lạp xuất hiện sớm nhất vào khoảng thế kỷ VIII - VI TCNtrong khi đó nhà nước Phương Đông lại xuất hiện rất sớm từ cuối thiên niên kỷ thứ IV TCN) 

4. Thành thị

Nhà nước Phương Đông cổ đại tồn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hoá chậm phát triển nên không xuất hiện những trung tâm kinh tế lớn.

Ở Phương Tây, nền kinh tế vẫn mang tính chất tự nhiên, nhưng khác với Phương Đông là kinh tế công thương nghiệp ở Phương Tây rất phát triển, nên ở Phương Tây đã sớm xuất hiện những thành thị, những khu tập trung buôn bán, trao đổi hàng hóa. 

Khác cơ bản với thành thị ở Phương Đông mang nhiều yếu tố "tĩnh" chủ yếu là trung tâm chính trị, ngược lại thành thị Phương Tây mang nhiều yếu tố "động", vừa là trung tâm chính trị vừa là trung tâm kinh tế. Hoạt động lưu thông tiền tệ, kinh tế hàng hoá phát triển nên thành thị phương Tây cổ đại rất phồn thịnh

5. Sở hữu ruộng đất

Ở Phương Đông, ruộng đất hầu hết thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Quyền sở hữu ruộng đất của tư nhân có nơi có lúc xuất hiện nhưng đóng vai trò không đáng kể.Công xã nông thôn ở Phương Đông không bị phá vỡ mà được bảo lưu, tồn tại một cách vững chắcChính sự tồn tại của công xã nông thôn đã làm cho quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước Phương Đông càng thêm ổn định, củng cố thêm chế độ độc tài chuyên chế 

Ở Phương Tây, quyền sở hữu ruộng đất chủ yếu thuộc về tư nhân. Ví dụ: ở La Mã, sau các cuộc chiến tranh chinh phục, nhà nước đã biến ruộng đất chiếm được thành đất công rồi đem bán hoặc chia cho tư nhân.
10. Pháp luật

Thời cổ đại đã có những sản phẩm lập pháp rất đồ sộ và thể hiện tính pháp điển hóa cao như Bộ luật Hammurabi và Bộ luật Manu (ở Phương Đông), Luật 12 Bảng và Bộ pháp điển Corpus Iuris Civilis năm 533 SCN ở La Mã (ở Phương Tây). Đây là những thành tựu nổi bật về lập pháp thời cổ đại. 

Điểm khác biệt rõ nhất giữa pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại là ở chỗ: Nếu so sánh với các nước Phương Tây thời cổ đại thì pháp luật dân sự ở Phương Đông kém phát triển hơn Phương Tây. Ở Phương Đông, lĩnh vực pháp luật hình sự với các qui định về tội phạm và hình phạt được qui định nhiều hơn hơn pháp luật dân sự. 

Điểm hạn chế rõ nhất của các Bộ luật cổ là các chế định hình sự. Sự hàm hỗn giữa hình luật và dân luật chính là nét đặc trưng cơ bản của luật pháp thời kỳ này. Hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là nhiều bộ luật (đặc biệt là các Bộ luật ở Phương Đông) đã hình sự hoá hầu hết các quan hệ xã hội. Ngoài ra các qui định hình sự cũng thể hiện sự bất bình đẳng rõ nét và sự tiếp thu các tàn dư của cách xử sự trong xã hội công xã nguyên thuỷ

Vượt ra khỏi tính giai cấp, pháp luật cổ đại chứa đựng nhiều điểm tiến bộ 
- Trong Bộ luật Hammurabi có nhiều qui định tiến bộ như: 1) quan hệ hợp đồng khi qui định ba điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng mua bán; 2) qui định con trai, con gái đều được hưởng quyền thừa kế ngang nhau; 3) kết hôn phải có giấy tờ; 4) người chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh phong hủi; 5) trách nhiệm của thẩm phán khi xử oan người vô tội v.v...

- Trong Luật 12 Bảng cũng có nhiều qui định đặc biệt tiến bộ như: 1). Qui định thủ tục xét xử bắt buộc và trách nhiệm của thẩm phán. (Ví dụ: Điều 6. Bảng IX : “Cấm xử tử hình một người mà chưa thông qua xét xử“. Điều 4. Bảng IX: “Thẩm phán sẽ bị xử tử hình nếu có bằng chứng về việc phạm tội nhận hối lộ”); 2). Qui định cụ thể về trình tự tố tụng như Điều 4 Bảng I: „Nếu các bên đã thỏa thuận giao kèo, thì phải công bố công khai thỏa thuận này. Nếu các bên có tranh chấp, thì họ phải đưa vụ kiện ra nơi công cộng trước buổi trưa. Họ sẽ cùng tự bào chữa cho mình. Sau buổi trưa, thẩm phán sẽ phán quyết. Nếu cả hai đều có mặt, vụ kiện sẽ kết thúc lúc mặt trời lặn"; 3). Xác định rõ thời hiệu, hiệu lực của thỏa thuận dân sự. (Ví dụ: Điều 1. Bảng III: „Trong trường hợp một khoản nợ đã được xác định trước hoặc khoản nợ mà Tòa án đã tuyên bố buộc phải trả, thì trong thời hạn ba mươi ngày khoản nợ đó phải được thanh toán“; Điều 1. Bảng VI: “Nếu một người làm một giao kèo hoặc chuyển nhượng và thông báo điều đó bằng lời nói, thì kể từ thời điểm đó quyền lợi được xác lập); 4). Xác định rõ quyền đối với bất động sản liền kề (Ví dụ: Điều 1. Bảng VII: “Một người chủ tài sản phải làm một con đường để đi lại (nếu tồn tại một quyền với lối đi - right-of-way); nếu người chủ từ chối không làm, khách qua đường vẫn có quyền đi qua cùng với gia súc bất cứ chỗ nào mà họ phải đi qua.”); 5). Xác định rõ đối tượng được hưởng thừa kế (Ví dụ: Điều 1. Bảng V: “Nếu một người qua đời không để lại di chúc mà cũng không có người thừa kế theo luật, thì người đàn ông tiếp theo thuộc họ hàng gần nhất sẽ hưởng thừa kế. Nếu không có người đàn ông kế tiếp thuộc họ hàng gần nhất, những người đàn ông thuộc dòng tộc còn lại sẽ được hưởng thừa kế”; Điều 2. Bảng V Luật 12 Bảng: Nếu một người bị điên, thì người đàn ông tiếp theo thuộc họ hàng gần nhất của người đó sẽ có quyền đối với tài sản của anh ta")..

Bộ pháp điển Corpus Iuris Civilis năm 533 SCN ở La Mã là đỉnh cao về lập pháp thời cổ đại. Đây được coi là cội nguồn của luật pháp Châu Âu thời Trung đại và Cận hiện đại. Sự tiến bộ của Bộ pháp điển này ở chỗ pháp luật bảo vệ tất cả các mặt của chế độ tư hữu, phạm vi điều chỉnh của luật rất sâu và rộng, liên quan đến cá nhân như sở hữu, hôn nhân và gia đình, hợp đồng, thừa kế. Điển hình là các qui định như: 1). Phân loại sở hữu đất đai thành sở hữu nhà nước, sở hữu công xã và tư hữu; 2). về qui định điều kiện hợp đồng phải thoả mãn 2 điều kiện là phải dựa trên cơ sở thoả thuận tự nguyện giữa hai bên, không được lừa dối, không được dùng bạo lực và nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, phù hợp với các qui định của pháp luật, người kí kết phải có đủ năng lực theo qui định của pháp luật; 3). Các cách phân loại hợp đồng; 4). Qui định về cầm cố tài sản; 5). Cách qui định về giải quyết tranh chấp hợp đồng khi gặp phải trường hợp bất khả kháng; 6). Về thừa kế theo di chúc (Testato) và thừa kế theo luật (Intestato); 7. Về qui địnhtài sản riêng của vợ chồng; 8. Về việc cho phép người vợ có quyền li hôn và nhận lại của hồi môn của mình..

Thời phong kiến, các nhà nước phương Tây đã dựa vào những chế định của Luật La Mã để xây dựng luật riêng cho vương quốc họ. Đến thời cận hiện đại, các nhà làm luật cũng kế thừa Luật La Mã cổ đại để xây dựng thành Bộ luật dân sự của quốc gia mình. Điển hình là Bộ luật dân sự của Pháp do hoàng đế Napôlêông xây dựng năm 1804, Bộ luật dân sự của Đức năm 1900. Các Bộ luật dân sự đương đại trên thế giới hiện nay, kể cả Bộ luật dân sự của Việt Nam đều ít nhiều kế thừa những qui định tiến bộ đã có từ Luật La Mã thời cổ đại và pháp luật của các quốc gia Tây Âu hiện đại






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét