Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Từ Kiều Phong đến Khiết Đan


1.Từ Kiều Phong đến Khiết Đan



Ai từng đọc tiểu thuyết kiếm hiệp Thiên long bát bộ của Kim Dung sẽ không thể quên chàng hiệp sĩ Kiều Phong. Chỉ vì xuất thân là người Khiết Đan mà Kiều Phong phải chịu bao nguy khốn vì bị người trung nguyên kỳ thị. Cuối cùng chàng phải chọn cái chết để hóa giải những thâm thù sắc tộc... Khiết Đan - một vương triều hùng mạnh biến mất, một giai đoạn lịch sử chìm sâu, một dân tộc trôi vào dĩ vãng. Khiết Đan - một cái tên thần bí mà xa xôi...

Ngày 21-6-1922, tại một ngôi cổ mộ đã bị trộm viếng ở Ba Lâm Thạch Kỳ thuộc Nội Mông, Trung Quốc, một giáo sĩ phương Tây tên Kervin phát hiện một bia đá trên có khắc đầy những phù hiệu kỳ quái theo hàng lối như văn tự.
Lúc ấy không ai “đọc” được những phù hiệu này và gọi đó là “thiên thư” (sách trời). Những phù hiệu này đến từ đâu và truyền đạt cho người đời những thông điệp gì?
Câu đố từ “thiên thư”
Qua khảo chứng xác định ngôi mộ này của người Khiết Đan từ hơn 900 năm trước, như vậy những phù hiệu kia phải chăng là chữ Khiết Đan? Theo sử thư thì người Khiết Đan sau khi lập nước Đại Liêu đã sáng tạo ra chữ Khiết Đan. Tuy nhiên, loại chữ này sau đó đã thất truyền, tính đến nay có hơn 700 năm. Giờ đây hầu như không còn thấy loại chữ cổ này nữa.
Một số chuyên gia Trung Quốc quyết đoán rằng “thiên thư” chính là văn tự Khiết Đan đã bị chôn vùi bao năm tháng. Tiếp đó, nhiều văn tự và văn vật Khiết Đan được khai quật ở vùng cương thổ triều Đại Liêu năm xưa, thông qua phá giải văn tự người ta biết nhiều về triều đại này hơn.
Năm 1986, tại khu tự trị Nội Mông Cổ phát hiện một ngôi mộ hợp táng công chúa và phò mã Khiết Đan. Cách thức xây dựng mộ huyệt, tang chế rõ ràng chịu ảnh hưởng của văn hóa trung nguyên.
Tuy di thể toàn bộ đã tan rã nhưng những sợi tơ bạch quanh người và mặt nạ bằng vàng úp trên đầu đã nói lên sự tôn quý của chủ nhân lúc sinh tiền.
Đồ tùy táng gồm vật phẩm bằng vàng, ngọc được chạm trổ cực kỳ tinh xảo thể hiện trình độ chế tác thủ công mỹ nghệ đương thời rất cao, và chính điều này đã mở ra một hướng nhìn khác về người Khiết Đan chuyên cưỡi ngựa bắn cung.
Từng hùng bá một nửa đất Trung Hoa
“Khiết Đan” có nghĩa là thép ròng, kiên cố, cứng rắn. Đây là một dân tộc dũng mãnh, hung hãn có tiếng, thuộc phương Bắc Trung Hoa.
Từ 1.400 năm trước, cái tên “Khiết Đan” đã được chép trong Ngụy thư. Họ có binh hùng ngựa khỏe, kiêu dũng thiện chiến. Năm 947, một thủ lĩnh bộ lạc tên là Gia Luật A Bảo Cơ đã thống nhất các bộ tộc Khiết Đan, lập ra nước Khiết Đan, năm 947 đổi quốc hiệu là Đại Liêu.

Vương triều Đại Liêu hùng bá nửa dải giang sơn Trung Hoa, chiếm giữ phía Bắc hơn 200 năm, tranh bá đồ vương với triều Tống thành thế Bắc Nam đối đỉnh, nhiều phen khiến Tống triều khốn đốn.
Vào thời gian này, “con đường tơ lụa” từ trung nguyên Trung Hoa sang phương Tây bị cắt đứt. Các nước thuộc vùng Trung Tây Á-Âu đều ngỡ rằng Khiết Đan thống trị cả Trung Hoa.
Trong ghi chép của nhà thám hiểm Maco Polo lần đầu tiên giới thiệu phương Đông với phương Tây đã lấy tên Khiết Đan mệnh danh Trung Hoa.
Cho đến ngày nay, trong các nước thuộc hệ ngôn ngữ Slavơ vẫn gọi Trung Hoa là “Khiết Đan”. Tại Trung Quốc ai cũng biết về “Dương gia tướng”.
Đây chính là câu chuyện ở sa trường từ 1.000 năm trước về quân đội triều Tống dưới sự thống lĩnh của Dương gia tướng chống lại quân Khiết Đan hùng mạnh.
Văn hóa Khiết Đan
Dân tộc Khiết Đan không chỉ sáng tạo nên một đế quốc quân sự mà còn cả một nền văn hóa xán lạn.
Thể hiện rõ nét nhất nền văn hóa này là những chùa Liêu và tháp Liêu. Hiện ở khu vực phía bắc Hoàng Hà còn bảo tồn chùa Cổ Phật và Phật tháp nguy nga hùng vĩ của dân tộc Khiết Đan. Trải qua ngàn năm mưa gió nó vẫn uy nghi, vững chãi như mới.
Đặc biệt, tháp Thích Ca ở huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây hiện nay là kiến trúc tháp bằng gỗ cổ nhất và cao nhất thế giới. Dù đã trải qua nhiều trận động đất mạnh, nó vẫn không hề hấn gì cho thấy kỹ thuật xây dựng của người Khiết Đan không phải xoàng.
Một dân tộc sáng tạo ra nền văn hóa huy hoàng như thế nhất định phải dựa trên cơ sở kinh tế vững chắc với lực lượng hùng hậu và trình độ kỹ thuật, nghệ thuật khá cao. Đồng thời cũng có thể thấy vương triều Khiết Đan hấp thu nhiều luồng văn hóa.
Thông qua đường mậu dịch với triều Tống, người Khiết Đan đã tiếp nhận từ nhân tài người Hán đến những kỹ thuật sản xuất tiên tiến... Người Khiết Đan hùng dũng trên lưng ngựa đã tạo cho phương Bắc Trung Hoa một thời kỳ phát triển phồn thịnh.
Nhưng một vương triều cường thịnh như thế lại tựa hồ mây khói tiêu tan ở cuối chân trời, không hình không ảnh. Hai nước Đại Liêu và Bắc Tống giằng co với nhau hơn 160 năm thì điều bất ngờ xảy ra: Kẻ tiêu diệt Đại Liêu lại chính là tộc Nữ Chân - một bộ tộc từng quy phục Khiết Đan trước đó.
Thủ lĩnh tộc Nữ Chân là Hoàn Nhan A Cốt Đả đã bất ngờ tấn công lãnh thổ Đại Liêu, đánh thành, cướp đất và tàn sát người Khiết Đan không nương tay. Năm 1115, tộc Nữ Chân lập nên triều Kim. Mười năm sau họ làm sụp đổ hoàn toàn vương triều Khiết Đan.
Một bộ phận người Khiết Đan may mắn sống sót đi theo hoàng thân Gia Luật Đại Thạch chạy về phía Tây, hình thành nước Ha Lạt Khiết Đan, còn gọi là Tây Liêu, ở giữa Trung Á và Tân Cương, Trung Quốc ngày nay. Nước này cũng có lúc mạnh lên nhưng cuối cùng bị đại quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn tiêu diệt.
Sau đó, những tàn dân Khiết Đan lại chạy về miền Nam của Iran ngày nay lập nên vương triều Khởi Nhi Man. Không lâu sau vương triều này cũng chịu chung số phận của vương triều Khiết Đan, tuyệt hẳn tung tích giữa vùng sa mạc mênh mông.
THIÊN TƯỜNG


2. Người Khiết Đan có hậu duệ không?

Trong lịch sử Trung Hoa, chuyện thay ngôi đổi chủ thường xuyên xảy ra nhưng nền văn hóa truyền thống vẫn tiếp nối. Song, vương triều Khiết Đan sau khi bị diệt vong thì cả nền văn hóa Khiết Đan cũng theo đó mà tàn lụi.

Phân tích nguyên nhân, có thể thấy, từ khi vương triều Khiết Đan kiến lập đến năm 1271 triều Nguyên ra đời, trong khoảng hơn 300 năm, Trung Hoa xuất hiện đến 6 triều đại: Liêu, Bắc Tống, Tây Hạ, Kim, Nam Tống, Nguyên. Đây là một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt.
Chữ viết không còn
Do kẻ thống trị triệt hạ nhau giành quyền chính đều thuộc các tộc người khác nhau nên triều đại nào bị tiêu diệt là kéo theo cả vị trí của dân tộc đó cùng nền văn hóa tương quan bị biến chuyển hoặc hủy diệt. Triều Kim của tộc Nữ Chân sau khi đoạt triều Đại Liêu đã hạ lệnh giết sạch những người Khiết Đan phản kháng, trong đó có một cuộc chém giết kéo dài liên tục hơn 1 tháng được ghi trong sử.
Rất có khả năng văn hóa Khiết Đan đã gặp tai họa vào lúc đó. Ngoài ra, lúc triều Kim vừa kiến lập, do tộc Nữ Chân không có văn tự riêng nên phải dùng chữ Hán và chữ Khiết Đan. Sau khi văn tự Nữ Chân được tạo ra thì hoàng đế triều Kim hạ lệnh phế bỏ chữ Khiết Đan, chính vì thế mà văn tự Khiết Đan thất truyền, văn hóa Khiết Đan tuyệt tích.
Ông Lưu Phụng Chư, chuyên viên Phòng Nghiên cứu dân tộc, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, là người hiểu được văn tự Khiết Đan nhiều nhất thế giới hiện nay. Ông cho biết toàn bộ chữ Khiết Đan phát hiện được đều khắc trên bia mộ và chưa có thư tịch nào viết bằng chữ Khiết Đan cả. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc tìm hiểu toàn thể diện mạo Khiết Đan.
Trong Di Hòa Viên ở Bắc Kinh hiện còn một ngôi mộ và đền thờ Gia Luật Sở Tài, một người Khiết Đan hiếm hoi được Thành Cát Tư Hãn trọng dụng, làm đến chức vụ tương đương tể tướng triều Nguyên. Điều đáng nói là Gia Luật Sở Tài ra đời sau khi vương triều Khiết Đan diệt vong chỉ 65 năm, nhưng văn tự Khiết Đan đã không còn, ông phải mày mò tự học rất vất vả và rồi cũng không có cơ hội sử dụng (theo Trạm Nhiên cư sĩ tập). Gia Luật Sở Tài là điểm sáng cuối cùng của người Khiết Đan.
Ngày nay trong 56 dân tộc ở Trung Quốc không hề có cái tên Khiết Đan lừng lẫy một thời, vậy họ đã đi đâu? Các nhà sử học suy đoán có 3 khả năng:
- Thứ nhất, người Khiết Đan ở vùng đất tổ tiên của họ đã dần quên cội nguồn, dung hợp và đồng hóa với các dân tộc khác.
- Thứ hai, sau khi Đại Liêu bị tiêu diệt, đại bộ phận người Khiết Đan kéo về phía Tây đến vùng Kerman, Iran, cuối cùng hoàn toàn bị “Iran hóa”.
- Thứ ba, sau khi chiến tranh giữa triều Kim và Mông Cổ xảy ra, một bộ phận người Khiết Đan “thề không ăn gạo nhà Kim” đã đi theo quân Mông Cổ chinh phạt, tử thương rất nhiều. Số còn lại phân tán nhiều nơi, cuối cùng bị đồng hóa.
Hầm cổ mộ Khiết Đan
Người Tahua là hậu duệ của người Khiết Đan?
Trong thời gian tìm kiếm dấu vết của người Khiết Đan, các chuyên gia đặc biệt chú ý đến tộc người Tahua (Đạt Oát Nhĩ) sinh sống ở vùng giáp giới núi Đại Hưng An, Nộn Giang và thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ. Theo truyền thuyết, mấy trăm năm trước nơi đây có một cánh quân Khiết Đan đến đắp sửa thành lũy. Thủ lĩnh là Tát Cát Nhĩ Du Hán trở thành tổ tiên của người Tahua.
So sánh những nghiên cứu về người Khiết Đan với lối sống, tập tục, tôn giáo, ngôn ngữ, lịch sử của người Tahua thấy có rất nhiều điểm tương đồng, có thể đây là dân tộc kế thừa truyền thống Khiết Đan nhiều nhất, nhưng đó chỉ là những chứng cứ gián tiếp.
Lúc này ở huyện Thi Điện, tỉnh Vân Nam phát hiện một khu dân cư đặc biệt mà trên phần mộ tổ tiên họ vẫn sử dụng chữ Khiết Đan, đều tự xưng là “bản nhân”. Trong xã Do Vượng có một tòa từ đường “bản nhân”, các chuyên gia phát hiện trên một tấm biển có khắc hai chữ triện “Gia Luật”.
Họ nói đây là nơi tưởng niệm ông tổ của họ là A Tô Lỗ - theo sử chép đây là một vị tướng Khiết Đan theo Mông Cổ chống triều Kim. Nhưng làm sao chứng minh những “bản nhân” này là hậu duệ của A Tô Lỗ? Mặt khác, đất tổ Khiết Đan ở tận Mạc Bắc, cách Vân Nam đến vạn dặm, vì thế chưa thể xác định “chính danh” hậu duệ Khiết Đan cho những “bản nhân” này.
Cuối cùng, các chuyên gia quyết định dùng kỹ thuật DNA để hóa giải câu đố ngàn năm này: Lấy xương cổ tay của thi hài nữ Khiết Đan ở Lạc Sơn, Tứ Xuyên; lấy răng và xương đầu người Khiết Đan trong mộ cổ ở Xích Phong, khu tự trị Nội Mông Cổ; lấy mẫu máu của người Tahua, “bản nhân”, người Hán, Mông Cổ... ở những vùng liên quan. So sánh những biến đổi trên chuỗi DNA từ xương và răng của tiêu bản, các chuyên gia kết luận: Người Tahua có quan hệ di truyền gần nhất với người Khiết Đan. Người “bản nhân” lại có khởi nguồn phụ hệ tương tự người Tahua, rất có thể là hậu duệ của quan binh Khiết Đan trong quân đội Mông Cổ.
Kết quả xét nghiệm này kết hợp với sử liệu, các học giả đã tìm ra “khúc cuối” của người Khiết Đan: Khi người Mông Cổ lập ra triều Nguyên, xây dựng đại đế quốc Mông Cổ cắt ngang đại lục Á-Âu, chinh chiến liên miên khiến cho tộc người thiện chiến Khiết Đan phần lớn bỏ thây nơi chiến địa, số còn lại phân tán các nơi, chỉ còn nhóm tương đối lớn mới tập trung lại ẩn cư sinh sống như tộc Tahua hoặc bị đồng hóa”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét