TÌM HIỂU NHỮNG NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ
Th.S §ç §øc Minh,
Văn phòng Thành uỷ Hải Phòng
Trong sự phát triển phong phú và sôi động của trào lưu tư tưởng “Bách gia chư tử” ở Trung Hoa thời kỳ cổ đại, học thuyết pháp trị xuất hiện trên vũ đài chính trị như là đại biểu đến sau cùng nhưng đã nhanh chóng được đón nhận, trở thành vũ khí lý luận sắc bén của nhà Tần trong việc quyết định cục diện hỗn loạn và thống nhất Trung quốc. Muộn màng nhưng bắt kịp yêu cầu lịch sử, nhanh chóng chiếm lĩnh vũ đài chính trị và cũng sớm ra đi cùng với sụp đổ của nhà Tần; như tia chớp loé sáng trong cơn giông, tuy ngắn ngủi nhưng tư tưởng pháp trị đã khắc đậm dấu ấn vào lịch sử.
Là học thuyết đạt đến đỉnh cao tư tưởng chính trị -pháp lý thời cổ đại, học thuyết pháp trị góp phần tô điểm thêm những giá trị tư tưởng đặc sắc phương Đông trong kho tàng chung của nhân loại và đang tiếp tục khẳng định những ý nghĩa tích cực của nó với thực tiễn đương đại hôm nay. Với ý nghĩa đó, việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp trị sẽ góp phần nhận diện đầy đủ hơn về học thuyết này.
1. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TỪ PHƯƠNG DIỆN THỰC TIỄN
Cũng như các học thuyết khác trong trào lưu “Bách gia chư tử”, học thuyết pháp trị ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của thời cổ đại với sự tồn tại chế độ nhà Chu. Đây là chế độ Chiếm hữu nô lệ (CHNL) điển hình của phương Đông với những đặc điểm cơ bản như sau:
Về Kinh tế: Dưới thời nhà Chu , do thực hiện chính sách Phân phongnên tất cả ruộng đất đều thuộc quyền quản lý của quý tộc, tầng lớp thứ dân về cơ bản là không có ruộng đất. Vì vậy, để thiết lập quan hệ sản xuất, nhà Chu đã thi hành rộng rãi chế độ Tỉnh điền. Theo chế độ này, ruộng đất được chia làm hai loại công điền và tư điền. Người nông dân phải cùng nhau cày cấy và nộp sản phẩm ở công điền cho các quý tộc sau đó mới được canh tác ở phần ruộng được chia. Như vậy, người nông dân lĩnh đất canh tác nhưng không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng ruộng đất. Chế độ Tỉnh điền đã cho thấy tính chất nhị nguyên cố hữu của quan hệ sản xuất CHNL ở phương Đông - tức là sự tồn tại song song của công điền với tư điền trong công xã.
Về Chính trị: Bắt tay xây dựng nền thống trị của mình, nhà Chu đãthiết lập trật tự xã hội theo kiểu Tông pháp (hay Lễ chế, do Chu công sắp đặt). Theo tinh thần của Tông pháp, Chu Thiên tử là người đứng đầu, thay trời trị dân, đóng vai trò Tông chủ, các nước chư hầu do thiên tử lập ra gọi là Tông quốc (cùng một tổ tiên chung). Bộ máy thống trị được tổ chức và điều hành theo nguyên tắc thân thân tôn tôn (thương yêu người thân, tôn quý người trên). Thực chất “Tông pháp là chế độ thống trị dựa trên cơ sở huyết thống của một dòng họ” [1]. Đây là nét đặc thù của chế độ chính trị nhà Chu, biểu hiện của tàn dư chế độ thị tộc còn lưu truyền dưới chế độ CHNL, nói lên tính chất bảo thủ và lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội của phương Đông.
Dựa trên chế độ Tông pháp, nhà Chu đã thiết lập và củng cố nền thống trị của mình qua nhiều thế kỷ và đã đưa chế độ CHNL lên đến đỉnh cao ở thời kỳ Tây Chu. Nhưng từ năm 770 Tr. Cn, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhà Chu phải dời đô sang đất Lạc ấp ở phía Đông. Từ đó, nhà Chu suy yếu dần và không còn ước thúc được các nước chư hầu nữa. Nhân cơ hội này, các nước chư hầu đều mượn danh nghĩa “tôn vương” (tôn phò nhà Chu ) để động binh thôn tính các nước khác và giành quyền bá chủ. Chế độ Tông pháp - cơ sở tổ chức xã hội của nhà Chu bị phá vỡ và Trung quốc bước vào thời kỳ khủng hoảng xã hội ngày càng trầm trọng là thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc. Chiến tranh giữa các nước chư hầu kéo dài liên tục suốt hơn 5 thế kỷ, từ cục diện Ngũ bá thời Xuân thu (Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống) đến Thất hùng thời Chiến quốc (Yên, Tề, Triệu, Nguỵ, Hàn, Tần, Sở). Đây là thời kỳ mà xã hộiTrung quốc trải qua những biến động rất lớn lao mà nguyên nhân sâu xa của nó là do sự phát triển mạnh mẽ các yếu tố của lực lượng sản xuất: khoa học kỹ thuật đạt nhiều thành tựu to lớn, kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ lâu đời, sự cần cù chịu khó của nhân dân…đặc biệt, với sự ra đời của đồ Sắt đã tạo ra bước nhảy vọt của công cụ sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất trở nên mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất thống trị ban đầu. Và sự tan rã của chế độ Phân phong, Tỉnh điền, Tông pháp là hệ quả tất yếu của những mâu thuẫn đó; đồng thời những mâu thuẫn về kinh tế được biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa một bên là các tập đoàn thống trị với một bên là tầng lớp địa chủ mới lên và giai cấp quý tộc chủ nô đã suy tàn, là nguyên nhân của những tình trạng cát cứ, tiếm ngôi việt vị, tranh giành bá chủ và khủng hoảng xã hội triền miên. Những biến động của xã hội Trung hoa cổ đại được bắt nguồn từ những nguyên nhân bên trong của nó và thực chất của những biến động ấy là bước chuyển từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn và phong kiến sơ kỳ sang hình thái xã hội phong kiến tập quyền đang trong quá trình xác lập.
Trong bối cảnh xã hội giao thời, những giá trị chuẩn mực cũ bị băng hoại, những chuẩn mực mới chưa định hình cho nên trật tự lễ nghĩa bị phá bỏ, cương thường xã hội bị đảo lộn. Các hiện tượng vượt chức phận, tiếm tước vị, tôi giết vua, con giết cha, anh em giết nhau.. trở nên phổ biến tạo ra sự hỗn loạn chưa từng có. Bức tranh toàn cảnh của xã hội Trung quốc ở giai đoạn này là sự khủng hoảng về chính trị xã hội và đạo đức luân lý hết sức sâu sắc. Do tác động của của những biến đổi kinh tế- xã hội, một bộ phận quý tộc cũ bị sa sút mất địa vị, họ không còn được làm quan lại mà đi làm thầy trong thiên hạ. Một cách không tự giác, họ đóng vai trò tích cực trong việc chuyển tảivăn hoá quan phương (chỉ dành cho giới quý tộc trước đây) xuống tầng lớp bình dân. Từ phong trào này, xuất hiện tầng lớp kẻ sỹ cùng với một trào lưu học thuật và tự do tư tưởng rộng rãi- những tiền đề nảy sinh một loạt các đại biểu và các trường phái tư tưởng chính trị đại diện cho lợi ích của các tầng lớp giai cấp xã hội khác nhau như : Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử với các học thuyết Lão gia, Nho gia, Mặc gia, Pháp gia…
Hiện thực xã hội nóng bỏng đương thời đã đặt ra những yêu cầu trực tiếp đối với các học thuyết phải quan tâm lý giải và đề xuất những giải pháp để vãn hồi trật tự. Xuất phát từ quan niệm nền tảng về “Đạo”, Lão Tử cho rằng xã hội loạn là do con người vi phạm qui luật tự nhiên, nên ông chủ trương “vô vi nhi trị”, khuyên mọi người từ bỏ mọi thành quả văn minh và chạy trốn vào tự nhiên, thoát ly thực tế. Trang Tử - học trò của ông lại muốn đi về một nẻo xa hơn, bi quan yếm thế gần như thoát tục, chỉ còn mong được “làm con rùa để lết cái đuôi trong bùn”. Theo Khổng Tử, xã hội loạn là do Lễ chế nhà Chu bị buông lỏng nên ông chủ trương khôi phục Lễ, đề xuất chủ trương Đức trị. Làm quan ở nước Lỗ trong vài tháng, còn lại suốt cuộc đời ông đi qua đi lại khắp hơn mười nước để truyền bá chủ trương của mình nhưng chẳng có ai nghe, hơn 50 tuổi ông về quê dạy học cho đến đến cuối đời… Gần 200 năm sau, trong khi chiến tranh loạn lạc bên ngoài xã hội vẫn diễn ra gay gắt, Mạnh Tử tiếp tục tư tưởng của thầy. Nhiệt tình say mê với lý tưởng, ông cũng không tiếc sức khuyên răn các bậc cầm quyền đi theo con đường Vương đạo. Khi sang nước Tề, được Tề Tuyên vương đón tiếp và hỏi: “Thầy chẳng quản đường xa đến đây, chắc sẽ dạy cho quả nhân được điều gì có lợi ? Mạnh Tử đáp rằng: Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi, chỉ nên bàn về nhân nghĩa mà thôi” [2]. Nước Đằng nhỏ bé, yếu đuối luôn bị nước Tần bên cạnh uy hiếp, gặp được Mạnh Tử sang truyền bá Vương đạo, vua Đằng mừng rỡ hỏi thầy có cao kế gì giúp nước này đang lúc nguy nan, Mạnh Tử chỉ biết khuyên nhà Đằng hãy lấy Đức thu phục lòng dân, để vua tôi đồng lòng chống đỡ, còn trường hợp không chóng nổi địch thì đành …bỏ đi nơi khác! Là người đề xuất chủ trương Kiêm ái, kêu gọi xây dựng xã hội trên cơ sở tình thương không phân biệt giai cấp, Mặc Tử cùng với hàng ngàn đệ tử bôn ba truyền thuyết một thời, song cuối cùng chẳng được ai trọng dụng. Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử …đều là những nhà tư tưởng lớn, nhiệt tình lo toan cứu đời, không tiếc thời gian và sức lực, đã mỏi trán chồn chân truyền bá chủ trương nhưng đều thất bại. Khổng Tử đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc cấp tiến, lập trường của Lão Tử thuộc về giai cấp quý tộc cũ đã suy tàn, Mặc Tử đại diện cho tầng lớp lao động bình dân…tất cả đều là những giai cấp đã hết hay không giữ vai trò lịch sử tiên phong. Lịch sử đã tiến lên phía trước nhưng các ông lại muốn quay về với quá khứ; trong khi mọi người cho rằng sức mạnh là chân lý thì các vị lại kêu gọi đạo đức và tình thương, cho nênhọc thuyết của các ông đều mang tính không tưởng và không đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. Và sự bế tắc của lý luận chính là một nguyên nhân kéo dài và làm sâu sắc thêm khủng hoảng xã hội đương thời.
Trong khi đó, chiến tranh giữa các nước chư hầu vẫn diễn ra triền miên với qui mô và sự khốc liệt ngày càng tăng, xã hội ngày càng rối ren điên đảo, cuộc sống của người dân ngày một cơ cực lầm than. Thống nhất Trung Quốc, chấm dứt chiến tranh đã trở thành yêu cầu bức thiết của lịch sử. Vào lúc tình hình đen tối đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử, đề xuất chủ trương chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu. Các nhà pháp trị đã phê phán
gay gắt xã hội đương thời và họ cho rằng đặc điểm của thời đại lúc đó là thời kỳ tranh đua sức mạnh, do đó không thể trông chờ đạo đức và tình thương để lập lại trật tự xã hội mà phải dùng công cụ bạo lực để chấm dứt sự hoành hành của bạo lực đã nhanh chóng khai thông bế tắc xã hội và trở thành ngọn cờ tư tưởng để nhà Tần thực hiện thành công sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.
2. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TỪ PHƯƠNG DIỆN LÝ LUẬN
[1] Đàm Gia Kiệm: Lịch sư Văn hoá trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, H, 1993, tr. 34
[2] Hà Thúc Minh: Lịch sử Triết học Trung Quốc, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 42.
[3] Lã Trấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự Thật, H, 1964, tr 178- 179
[4] Nguyễn Ngọc Huy: Tư tưởng phương Đông- Gợi những đIểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, 1995, H, tr. 226
[5] Phan Ngọc: Hàn Phi Tử , Nxb Văn học, H, 2001, tr. 68
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét