Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

TÌM HIỂU NHỮNG NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ



TÌM HIỂU NHỮNG NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ

Th.S  §ç §øc Minh,
Văn phòng Thành uỷ Hải Phòng

            Trong sự phát triển phong phú và sôi động của trào lưu tư tưởng “Bách gia chư tử” ở Trung Hoa thời kỳ cổ đại, học thuyết pháp trị xuất hiện trên vũ đài chính trị như là đại biểu đến sau cùng nhưng đã nhanh chóng được đón nhận, trở thành vũ khí lý luận sắc bén của nhà Tần trong việc quyết định cục diện hỗn loạn và thống nhất Trung quốc. Muộn màng nhưng bắt kịp yêu cầu lịch sử, nhanh chóng chiếm lĩnh vũ đài chính trị và cũng sớm ra đi cùng với sụp đổ của nhà Tần; như tia chớp loé sáng trong cơn giông, tuy ngắn ngủi nhưng tư tưởng pháp trị đã khắc đậm dấu ấn vào lịch sử.
Là học thuyết đạt đến đỉnh cao tư  tưởng chính trị -pháp lý thời cổ đại, học thuyết pháp trị góp phần tô điểm thêm những giá trị tư tưởng đặc sắc phương Đông trong kho tàng chung của nhân loại và đang tiếp tục khẳng định những ý nghĩa tích cực của nó với thực tiễn đương đại hôm nay. Với ý nghĩa đó, việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp trị sẽ góp phần nhận diện đầy đủ hơn về học thuyết này.
1. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TỪ PHƯƠNG DIỆN THỰC TIỄN
            Cũng như các học thuyết khác trong trào lưu “Bách gia chư tử”, học thuyết pháp trị ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của thời cổ đại với sự tồn tại chế độ nhà Chu. Đây là chế độ Chiếm hữu nô lệ (CHNL) điển hình của phương Đông với những đặc điểm cơ bản như sau:
Về Kinh tế: Dưới thời nhà Chu, do thực hiện chính sách Phân phongnên tất cả ruộng đất đều thuộc quyền quản lý của quý tộc, tầng lớp thứ dân về cơ bản là không có ruộng đất. Vì vậy, để thiết lập quan hệ sản xuất, nhà Chu đã thi hành rộng rãi chế độ Tỉnh điền. Theo chế độ này, ruộng đất được chia làm hai loại công điền và tư điền. Người nông dân phải cùng nhau cày cấy và nộp sản phẩm ở công điền cho các quý tộc sau đó mới được canh tác ở phần ruộng được chia. Như vậy, người nông dân lĩnh đất canh tác nhưng không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng ruộng đất. Chế độ Tỉnh điền đã cho thấy tính chất nhị nguyên cố hữu của quan hệ sản xuất CHNL ở phương Đông - tức là sự tồn tại song song của công điền với tư điền trong công xã.
Về Chính trị: Bắt tay xây dựng nền thống trị của mình, nhà Chu đãthiết lập trật tự xã hội theo kiểu Tông pháp (hay Lễ chế, do Chu công sắp đặt). Theo tinh thần của Tông pháp, Chu Thiên tử là người đứng đầu, thay trời trị dân, đóng vai trò Tông chủ, các nước chư hầu do thiên tử lập ra gọi là Tông quốc (cùng một tổ tiên chung). Bộ máy thống trị được tổ chức và điều hành theo nguyên tắc thân thân tôn tôn (thương yêu người thân, tôn quý người trên). Thực chất “Tông pháp là chế độ thống trị dựa trên cơ sở huyết thống của một dòng họ” [1]Đây là nét đặc thù của chế độ chính trị nhà Chu, biểu hiện của tàn dư chế độ thị tộc còn lưu truyền dưới chế độ CHNL, nói lên tính chất bảo thủ và lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội của phương Đông.
Dựa trên chế độ Tông pháp, nhà Chu đã thiết lập và củng cố nền thống trị của mình qua nhiều thế kỷ và đã đưa chế độ CHNL lên đến đỉnh cao ở thời kỳ Tây Chu. Nhưng từ năm 770 Tr. Cn, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhà Chu phải dời đô sang đất Lạc ấp ở phía Đông. Từ đó, nhà Chusuy yếu dần và không còn ước thúc được các nước chư hầu nữa. Nhân cơ hội này, các nước chư hầu đều mượn danh nghĩa “tôn vương” (tôn phò nhà Chu) để động binh thôn tính các nước khác và giành quyền bá chủ. Chế độ Tông pháp - cơ sở tổ chức xã hội của nhà Chu bị phá vỡ và Trung quốc bước vào thời kỳ khủng hoảng xã hội ngày càng trầm trọng là thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc. Chiến tranh giữa các nước chư hầu kéo dài liên tục suốt hơn 5 thế kỷ, từ cục diện Ngũ bá thời Xuân thu (Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống) đến Thất hùng thời Chiến quốc (Yên, Tề, Triệu, Nguỵ, Hàn, Tần, Sở). Đây là thời kỳ mà xã hộiTrung quốc trải qua những biến động rất lớn lao mà nguyên nhân sâu xa của nó là do sự phát triển mạnh mẽ các yếu tố của lực lượng sản xuất: khoa học kỹ thuật đạt nhiều thành tựu to lớn, kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ lâu đời, sự cần cù chịu khó của nhân dân…đặc biệt, với sự ra đời của đồ Sắt  đã tạo ra bước nhảy vọt của công cụ sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất trở nên mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất thống trị ban đầu. Và sự tan rã của chế độ Phân phong, Tỉnh điền, Tông pháp là hệ quả tất yếu của những mâu thuẫn đó; đồng thời những mâu thuẫn về kinh tế được biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa một bên là các tập đoàn thống trị với một bên là tầng lớp địa chủ mới lên và giai cấp quý tộc chủ nô đã suy tàn, là nguyên nhân của những tình trạng cát cứ, tiếm ngôi việt vị, tranh giành bá chủ và khủng hoảng xã hội triền miên. Những biến động của xã hội Trung hoa cổ đại được bắt nguồn từ những nguyên nhân bên trong của nó và thực chất của những biến động ấy là bước chuyển từ hình thái xã hội nô lệ suy tàn và phong kiến sơ kỳ sang hình thái xã hội phong kiến tập quyền đang trong quá trình xác lập.
Trong bối cảnh xã hội giao thời, những giá trị chuẩn mực cũ bị băng hoại, những chuẩn mực mới chưa định hình cho nên trật tự lễ nghĩa bị phá bỏ, cương thường xã hội bị đảo lộn. Các hiện tượng vượt chức phận, tiếm tước vị, tôi giết vua, con giết cha, anh em giết nhau.. trở nên phổ biến tạo ra sự hỗn loạn chưa từng có. Bức tranh toàn cảnh của xã hội Trung quốc ở giai đoạn này là sự khủng hoảng về chính trị xã hội và đạo đức luân lý hết sức sâu sắc. Do tác động của của những biến đổi kinh tế- xã hội, một bộ phận quý tộc cũ bị sa sút mất địa vị, họ không còn được làm quan lại mà đi làm thầy trong thiên hạ. Một cách không tự giác, họ đóng vai trò tích cực trong việc chuyển tảivăn hoá quan phương (chỉ dành cho giới quý tộc trước đây) xuống tầng lớp bình dân. Từ  phong trào này, xuất hiện tầng lớp kẻ sỹ cùng với một trào lưu học thuật và tự do tư tưởng rộng rãi- những tiền đề nảy sinh một loạt các đại biểu và các trường phái tư tưởng chính trị đại diện cho lợi ích của các tầng lớp giai cấp xã hội khác nhau như : Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử  với các học thuyết Lão gia, Nho gia, Mặc gia, Pháp gia…
Hiện thực xã hội nóng bỏng đương thời đã đặt ra những yêu cầu trực tiếp đối với các học thuyết phải quan tâm lý giải và đề xuất những giải pháp để vãn hồi trật tự. Xuất phát từ  quan niệm nền tảng về “Đạo”, Lão Tử  cho rằng xã hội loạn là do con người vi phạm qui luật tự nhiên, nên ông chủ trương “vô vi nhi trị”, khuyên mọi người từ bỏ mọi thành quả văn minh và chạy trốn vào tự nhiên, thoát ly thực tế. Trang Tử - học trò của ông lại muốn đi về một nẻo xa hơn, bi quan yếm thế gần như thoát tục, chỉ còn mong được “làm con rùa để lết cái đuôi trong bùn”. Theo Khổng Tử, xã hội loạn là do Lễ chế nhà Chu bị buông lỏng nên ông chủ trương khôi phục Lễ, đề xuất chủ trương Đức trị. Làm quan ở nước Lỗ trong vài tháng, còn lại suốt cuộc đời ông đi qua đi lại khắp hơn mười nước để truyền bá chủ trương của mình nhưng chẳng có ai nghe, hơn 50 tuổi ông về quê dạy học cho đến đến cuối đời…  Gần 200 năm sau, trong khi chiến tranh loạn lạc bên ngoài xã hội vẫn diễn ra gay gắt, Mạnh Tử tiếp tục tư tưởng của thầy. Nhiệt tình say mê với lý tưởng, ông cũng không tiếc sức khuyên răn các bậc cầm quyền đi theo con đường Vương đạo. Khi sang nước Tề, được Tề Tuyên vương đón tiếp và hỏi: “Thầy chẳng quản đường xa đến đây, chắc sẽ dạy cho quả nhân được điều gì có lợi ? Mạnh Tử đáp rằng: Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi, chỉ nên bàn về nhân nghĩa mà thôi” [2]. Nước Đằng nhỏ bé, yếu đuối luôn bị nước Tần bên cạnh uy hiếp, gặp được Mạnh Tử sang truyền bá Vương đạo, vua Đằng mừng rỡ hỏi thầy có cao kế gì giúp nước này đang lúc nguy nan, Mạnh Tử chỉ biết khuyên nhà Đằng hãy lấy Đức thu phục lòng dân, để vua tôi đồng lòng chống đỡ, còn trường hợp không chóng nổi địch thì đành …bỏ đi nơi khác! Là người đề xuất chủ trương Kiêm ái, kêu gọi xây dựng xã hội trên cơ sở tình thương không phân biệt giai cấp, Mặc Tử cùng với hàng ngàn đệ tử bôn ba truyền thuyết một thời, song cuối cùng chẳng được ai trọng dụng. Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử …đều là những nhà tư tưởng lớn, nhiệt tình lo toan cứu đời, không tiếc thời gian và sức lực, đã mỏi trán chồn chân truyền bá chủ trương  nhưng đều thất bại. Khổng Tử đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc cấp tiến, lập trường của Lão Tử thuộc về giai cấp quý tộc cũ đã suy tàn, Mặc Tử đại diện cho tầng lớp lao động bình dân…tất cả đều là những giai cấp đã hết hay không giữ vai trò lịch sử tiên phong. Lịch sử đã tiến lên phía trước nhưng các ông lại muốn quay về với quá khứ; trong khi mọi người cho rằng sức mạnh là chân lý thì các vị lại kêu gọi đạo đức và tình thương, cho nênhọc thuyết của các ông đều mang tính không tưởng và không đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. Và sự bế tắc của lý luận chính là một nguyên nhân kéo dài và làm sâu sắc thêm khủng hoảng xã hội đương thời.
            Trong khi đó, chiến tranh giữa các nước chư hầu vẫn diễn ra triền miên với qui mô và sự khốc liệt ngày càng tăng, xã hội ngày càng rối ren điên đảo, cuộc sống của người dân ngày một cơ cực lầm than. Thống nhất Trung Quốc, chấm dứt chiến tranh đã trở thành yêu cầu bức thiết của lịch sử. Vào lúc tình hình đen tối đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử, đề xuất chủ trương chính trị lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu. Các nhà pháp trị đã phê phán
gay gắt xã hội đương thời và họ cho rằng đặc điểm của thời đại lúc đó là thời kỳ tranh đua sức mạnh, do đó không thể trông chờ đạo đức và tình thương để lập lại trật tự xã hội mà phải dùng công cụ bạo lực để chấm dứt sự hoành hành của bạo lực đã nhanh chóng khai thông bế tắc xã hội và trở thành ngọn cờ tư tưởng để nhà Tần thực hiện thành công sự nghiệp thống nhất Trung Quốc. 
2. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TỪ PHƯƠNG DIỆN LÝ LUẬN
            Cũng như tất cả những học thuyết tư tưởng khác, học thuyết pháp trị được nảy mầm từ chính hiện thực của đời sống xã hội và phải qua qua quá trình phát triển lâu dài của những nấc thang tư tưởng từ thấp đến cao, từ những tiền đề đơn giản đầu tiên để trở thành một học thuyết hoàn chỉnh.
            Không chấp nhận cách cai trị bằng Lễ đã thành truyền thống của nhà Chu, những chủ trương đề cao vai trò của pháp luật trong cai trị của Quản Trọng và Tử  Sản (những chính khách của nước Tề và Trịnh thời Xuân thu)được xem như sự khởi đầu của đường lối pháp trị. Tuy nhiên họ mới chỉ chú ý đến yếu tố pháp luật, chủ trương dùng pháp luật thay cho lễ nghĩa nhưng chưa thực sự đoạn tuyệt với đạo đức. Sang thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị đạt được bước phát triển mới: những người theo tư tưởng pháp trị đã trỏ thành trường phái pháp gia với ba học phái riêng rẽ là: Thuật (của Thân bất Hại),Thế (của Thận Đáo) và  Pháp (của Thương ưởng). Họ không chỉ chủ trương dùng pháp luật để cai trị mà còn kết hợp với những phương tiện khác để trị nước. Đồng thời, trong tư tưởng của các pháp gia, chính trị đã thực sự ly khai với đạo đức.
            Thân Bất Hại (401- 337 Tr.Cn) là Thừa tướng của nước Hàn dưới thời Hàn Chiêu Hầu. Là người chủ trương dùng pháp luật để cai trị thay cho Lễ, nhưng đồng thời ông cũng đề cao Thuật cai trị (gồm có Thuật trừ gian và Thuật dùng người). Mục đích của Thuật nói chung là để đảm bảo cho pháp luật của nhà vua được thi hành đúng đắn; Thận Đáo (370- 290 Tr.Cn), người nước Triệu, trong khi đề cao pháp luật (coi pháp luật là nguyên tắc cao nhất của chính trị), lại cho rằng nếu không có quyền thế (địa vị, quyền lực) thì pháp luật cũng vô hiệu. Vì thế, Thận Đáo hết sức đề cao quyền thế. Theo ông, quyền thế là cơ sở để đặt ra pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thi hành. Để đảm bảo quyền thế của người cai trị, Thận Đáo chủ trương thiết lập một nhà nước tập quyền thống nhất, trong đó mọi quyền lực đều thuộc về nhà vua; Thương Ưởng (?- 338), người nước Vệ, tướng quốc nước Tần dưới thời Tần Hiếu Công lại khởi xướng tư tưởng về pháp và biến pháp. Ông đề cao hình pháp nhưng cũng yêu cầu hình pháp phải được thay đổi theo thời thế.
Chủ trương của các nhóm Thuật - Thế - Pháp đã phát triển và làm sâu sắc hơn tư tưởng pháp trị so với Quản Trọng và Tử Sản, qua đó đã nâng tư tưởng pháp trị lên một trình độ mới cao hơn. Song tư tưởng của những đại biểu trên đây mới chỉ là những quan điểm thuật pháp riêng rẽ về hành xử chính trị, chưa nhìn thấy sự thống nhất giữa pháp luật với các công cụ tác động là Thuật và Thế, còn hạn chế căn bản là tính phiến diện, chỉ thấy cây mà chưa thấy rừng. Do đó, những chủ trương của họ khi đem ra áp dụng bị thất bại là điều không thể tránh khỏi. Đón nhận sứ mệnh sứ mệnh tiếp tục đưa ngọn cờ pháp trị lên một tầm cao mới, Hàn Phi đã tiến hành tổng kết toàn bộ tư tưởng của các pháp gia tiền bối. Trong khi xác nhận những yếu tố hợp lý, đúng đắn của các quan điểm Pháp, Thế, Thuật trong việc khẳng định vai trò của các công cụ này, Hàn Phi cũng chỉ ra những hạn chế cụ thể của họ. Theo ông, Thuật của Thân Bất Hại là hoàn toàn đúng, song nó còn thiếu một điều kiện đảm bảo cho pháp luật có thể thực thi đó là quyền lực, vì “Bề trên có dùng Thuật giỏi nhưng nếu không có Thế thì cũng bị cái vạ là pháp luật không thấm nhuần vào được các quan” [3].  Bàn về Thận Đáo, Hàn Phi cho rẳng: Thế là cần thiết, nhà cầm quyền phải dùng quyền thế của mình nhưng cũng phải biết giữ pháp luật (phải có Thuật), song ông cũng chưa nhìn thấy vai trò của Thuật là yếu tố giữ cho quyền lực được bền vững. Những quan điểm về Pháp và Biến Pháp của Thương Ưỏng có nhiều tiến bộ, nhưng cũng như Thận Đáo, ông cũng chưa thấy được vai trò bổ sung giữa Thuật và Pháp. Theo Hàn Phi: “nhà vua không có Thuật thì cái tệ ở nơi người trên, bầy tôi mà không có pháp thì cái loạn do kẻ dưới” [4]. Trong thiên Định pháp, ông còn cho rằng: cả Thuật và Pháp đều cần thiết đối với cai trị như cơm ăn và áo mặc- những dụng cụ để nuôi sống con người. Như vậy, trên cơ sở phê phán quan điểm phiến diện của cả ba phái, Hàn Phi đã nêu rõ tính tất yếu phải hợp nhất chúng lại vì theo ông chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong đó Pháp được coi là trung tâm của chính sách cai trị; Thuật và Thế là những điều kiện tất yếu để thi hành pháp luật. Đồng thời, pháp luật được thực thi sẽ là cơ sở để Thuật và Thế được giữ vững và phát huy tác dụng. Theo ông, cả ba yếu tố này đều là “công cụ của đế vương”.
            Không chỉ dừng lại ở việc thống nhất các học phái pháp trị, Hàn Phi còn kế thừa, tiếp thu cơ sở lý luận từ các học thuyết tư tưởng Nho, Lão và phát triển chúng theo quỹ đạo của pháp trị. Là học trò của Tuân Tử, chịu ảnh hưởng của thầy nên Hàn Phi cũng thừa nhận bản tính của con người là ác, nhưng nếu Tuân Tử cho rằng bản tính của con người có thể thay đổi, người ác có thể trở thành thiện nhờ giáo dục để đến với chủ trương Đức trị thì Hàn Phi cho rằng tính ác tiềm ẩn trong tất cả mọi người là bất biến và phát huy thêm thuyết “tính ác” bằng việc đưa ra thuyết luân lý cá nhân vị lợi, từ đó ông tách khỏi con đường của thầy để đến với chủ trương pháp trị. Theo ông, trừ một số ít thánh nhân, còn hầu hết là thường nhân với nhiều tính xấu: tranh nhau vì lợi, lười biếng và chỉ phục tùng quyền lực. Bản tính vị kỷ, hám lợi sẽ dẫn con người đến chỗ tranh đoạt lẫn nhau và gây ra nhiều điều ác. Bằng lý luận về “tính ác”, Hàn Phi đã luận chứng cho tính tất yếu phải cai trị bằng pháp luật.
            Ngoài ra, Hàn Phi còn tiếp thu và phát triển học thuyết “chính danh” của nho gia thành một trong những tiền đề lý luận quan trọng cho lý thuyết pháp trị. Theo nho gia, “Chính danh” là một biện pháp qui định giúp mọi người nhận rõ cương vị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng. Có xác định được danh phận thì mới điều hoà được các quan hệ, do đó “chính danh” được xem như là phương tiện để ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, nếu nho gia cho rằng danh phận được sắp đặt tự nhiên thì Tuân Tử  chủ trương việc chế danh, ấn định ý nghĩa cho danh đó là quyền của vua, không ai được tự ý chế danh, đặt sai ý nghĩa các danh mà nhà vua đã định. Hàn Phi đã tiếp thu tư tưởng của thầy thành lý luận về hình danh cho pháp trị: “cái đạo bất biến của việc cai trị là lấy cái danh (tên gọi) làm đầu. Cái danh đã chính thì sự vật được xác định. Cái danh thiên lệch thì sự vật thay đổi” [5]. Như vậy, Khổng Tử là người đầu tiên lập nên thuyết chính danh và ông đã khởi xướng lý luận đầu tiên cho ý tưởng về pháp trị một cách không tự giác. Tuân Tử lại phát triển “chính danh” thêm và trở thành người đặt nền móng cho chủ trương của Hàn Phi.
            Điều quan trọng hơn, theo Hàn Phi là phải tìm một sở triết học làm xương sống cho lý thuyết pháp trị và ông đã tìm thấy nó ở lý thuyết của Lão Tử mà cơ sở là Đạo Đức kinh. Kế thừa và phát triển quan điểm duy vật về thế giới của Lão Tử và Tuân Tử, Hàn Phi đã giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo “đạo” và “lý ” của chúng. Theo ông, “đạo” vừa là nguồn gốc của vạn vật, vừa là qui luật phổ biến của chúng, vì vậy nó không thay đổi. Còn “lý” là qui luật riêng, nên nó thường biến hoá không ngừng. Vì vậy, để nhận thức được sâu sắc sự vật và hoạt động có kết quả, mọi hoạt động của con người phải theo qui luật “thể
  hiện đạo” và “tuân theo lý”. Vận dụng thuyết “đạo” và “lý” vào phép trị nước, ông cho rằng, ngày nay cái “lý” (thời thế, hoàn cảnh…) đã thay đổi, thì phép trị nước không thể viện dẫn theo Đạo đức của Nho gia, Kiêm ái của Mặc gia, Vô vi của Đạo gia như trước nữa, mà trong hoàn cảnh hiện tại (vương đạo suy vi, đất nước loạn lạc…) cần phải dùng pháp trị. 
            Trong khi kế thừa những giá trị tư tưởng từ các học thuyết tư tưởng khác Hàn Phi cũng mang tính chủ đích rõ rệt. Các thuyết Tính ác, Hình danh đều mang màu sắc duy tâm, phiến diện; song Hàn Phi đã tìm thấy ở đó những yếu tố hợp lý cho việc khẳng định cơ sở lý luận của học thuyết pháp trị, có khả năng phục vụ đắc lực, hiệu quả trong việc củng cố sức mạnh, thiết lập chính quyền trung ương tập quyền cao độ theo yêu cầu của giai cấp thống trị đương thời…nên chúng đã được sử dụng và được cải tạo theo quỹ đạo của lý thuyết Pháp trị. Nhờ sự tiếp thu cơ sở lý luận từ các học thuyết trên, Hàn Phi đã tiếp thêm sinh lực và nâng tư tưởng pháp trị lên một tầm cao mới, trở thành một học thuyết cai trị hoàn chỉnh và có nội dung rất phong phú. Sự ra đời của học thuyết pháp trị gắn với công lao, tên tuổi của nhà tư tưởng vĩ đại Hàn Phi- tập đại thành của học thuyết pháp trị.
Như vậy: Học thuyết pháp trị Trung hoa thời cổ đại được ra đời từ những nguyên nhân bắt nguồn từ phương diện thực tiễn và lý luận. Đó vừa là sự kế thừa những tư tưởng, học thuyết đi trước; vừa là sự phản ánh qui luật vận động của hiện thực trên cơ sở những kết quả của hoạt động nhận thức sáng tạo của con người gắn với những phẩm chất, nhân cách cá nhân tiêu biểu của thời đại.
3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI CỦA
     HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ
Trong thời kỳ Cổ đại, trên vũ đài chính trị của Trung Quốc đã lần lượt kiểm nghiệm vai trò của hàng loạt các học thuyết chính trị khác nhau trong việc giải đáp yêu cầu nóng bỏng của lịch sử, song chỉ duy nhất học thuyết pháp trị giải quyết thành công. Sự khủng hoảng chính trị - xã hội trầm trọng của xã hội đương thời phản ánh sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp đã trở nên gay gắt, chín muồi và đặt ra nhu cầu giải quyết bằng bạo lực và Pháp trị là học thuyết duy nhất đã nhận thức được nhu cầu đó. Không như những học thuyết khác đều đề cao nhân trị, pháp trị thực hiện đường lối chiến lược lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu, thực hiện các biện pháp kết hợp pháp quyền với kinh tế  trong cải cách để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển, sao cho “binh cường nước mạnh”. Có thể nói, lý thuyết pháp trị của Hàn Phi trong Bách gia chư tử là có ý nghĩa thực tiễn nhất. Nó vừa phản ánh sự vận động của xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại, vừa chỉ được con đường tất yếu chính trị để đi đến một quốc gia trung Quốc phong kiến thống nhất. Chủ trương của pháp trị đã đứng trên mảnh đất của hiện thực để giải quyết hiện thực và đáp ứng được lợi ích của giai cấp địa chủ- giai cấp đại diện cho xu thế đi lên của lịch sử. Vì vậy, pháp trị là học thuyết khoa học, cách mạng và thực tế cao.
Từ những nguyên nhân ra đời của học thuyết pháp trị cho chúng ta thấy: chính thực tiễn chính là nơi đặt ra yêu cầu cho lý luận giải đáp, song thực tiễn cũng luôn kiểm nghiệm, sàng lọc nghiêm khắc để đi đến sự lựa chọn duy nhất đúng là học thuyết pháp trị. Đồng thời nó cũng khẳng định: chỉ có học thuyết tư tưởng nào được ra đời trên cơ sở tổng kết thực tiễn, được kế thừa và được bổ sung thêm những giá trị tư tưởng mới trên cơ sở có chọn lọc, thì học thuyết đó mới giữ được vai trò lịch sử tiên phong. Sức sống của học thuyết pháp trị đối với thực tiễn còn được thể hiện ở chỗ đã đáp ứng được những lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị đương thời. Những qui luật rút ra từ quá trình hình thành của học thuyết pháp trị đã góp phần khẳng định tính khách quan, chân lý khoa học của học thuyết Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn; đặc biệt: trong khi khẳng định tính quyết định của thực tiễn với lý luận thì đồng thời cũng cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận trong việc mở đường cho thực tiễn đi lên. Ý nghĩa thiết thực của việc tìm hiểu những nguyên nhân ra đời của học thuyết pháp trị, một học thuyết đã từng thành công trong lịch sử, đối với công tác lý luận phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bám sát để nắm bắt được đúng những yêu cầu của thực tiễn; đồng thời phải biết bổ sung những giá trị mới trong kho tàng nhân loại và thời đại để không ngừng phát triển hoàn thiện lý luận, để lý luận của chúng ta luôn đáp ứng đựoc những yêu cầu của cuộc sống. Bài học của việc kế thừa, phát huy những giá trị tư tưởng phải đứng vững trên lập trường giai cấp cũng gợi mở  ý nghĩa thiết thực đối với công tác lý luận của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn đất nước hiện nay cũng đang đặt ra những câu hỏi lớn về hoàn thiện thể chế Kinh tế thị trường định hướng XHCN, Hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu công nghiêp hóa, hiện đại hóa, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân….mà lý luận phải giải đáp có hiệu quả.




[1] Đàm Gia Kiệm: Lịch sư  Văn hoá trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, H, 1993, tr. 34

[2]  Hà Thúc Minh: Lịch sử  Triết học Trung Quốc, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 42.
[3] Lã Trấn Vũ: Lịch sử  tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự Thật, H,  1964, tr 178- 179

[4] Nguyễn Ngọc Huy: Tư tưởng phương Đông- Gợi những đIểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, 1995, H, tr. 226

[5] Phan Ngọc: Hàn Phi Tử , Nxb Văn học, H, 2001, tr. 68

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét