1. Nền văn minh Babylon - Vùng văn hóa cổ ở trung tâm phía Nam Lưỡng Hà
NTO - Văn minh cổ Babylon là một vùng văn hóa cổ ở trung tâm phía Nam Lưỡng Hà, với thủ đô là Babylon. Nền văn minh này xuất hiện khi Hammurabi thành lập đế chế tách khỏi lãnh thổ của đế chế Akkadia trước đó. Cuối thiên niên kỷ III Trước công nguyên, hai tộc người Elam và người Amorites xâm lược tàn phá và cướp bóc Lưỡng Hà. Vào khoảng đầu thế kỷ XIX Trước công nguyên, người Amorites thống nhất Bắc Lưỡng Hà và hình thành quốc gia cổ Babylon và họ đã thống nhất được khu vực Lưỡng Hà. Quốc gia Babylon cổ nằm trên đường giao lưu quan trọng nối châu Á rộng lớn sang Địa Trung Hải, châu Phi và châu Âu
Sự cường thịnh và hùng mạnh đạt đến cao điểm vào thời kỳ 1792 - 1750 Trước công nguyên, dưới triều đại vua Hammourabi. Nhà nước cổ Babylon thống nhất trên một diện tích lãnh thổ toàn bộ Lưỡng Hà. Khoảng cuối thiên niên kỷ II Trước công nguyên, người Catsites nổi dậy và làm chủ hầu hết lãnh thổ của Babylon. Năm 1595, thành Babylon bị người Hittite phá huỷ.
Nền văn minh này đã biết phân biệt 5 hành tinh của Mặt trời: Kim, Thủy, Hoả, Thổ, Mộc và 12 chòm sao. Có những nghiên cứu về sao chổi, sao băng, động đất, tính trước được nhật thực, nguyệt thực, đặt ra âm lịch, tuần trăng.
Họ biết giải phẩu và mô tả được 40 loại bệnh. Vị thần bảo hộ y học Nilghidzida mà vật tượng trưng là rắn quấn quanh cái gậy, được dùng làm biểu tượng y học ngày nay.
Dân cư được chia thành ba hạng người: dân tự do, tiện dân và nô lệ. Nguồn nô lệ chủ yếu được cấp từ nguồn tù binh chiến tranh, mua bán.
Về toán học, họ biết các phép tính bình phương, khai căn, số pi, định lý tam giác vuông. Người dân Lưỡng Hà sử dụng hệ thống số đếm căn bản 60. Đây là nguồn gốc của giờ 60 phút và ngày 24 giờ hiện nay, cũng như vòng tròn 360 độ. Sự hiểu biết toán học này đã được sử dụng trong việc lập bản đồ. Đo thời gian bằng đồng hồ ánh nắng, đồng hồ nước chảy.
Về kinh tế: Babylon có những sắc thái đặc biệt do giao điểm của các con đường Đông Tây cũng như sự trù phú của đồng bằng Lưỡng Hà. Nông nghiệp phát triển nhờ vào các yếu tố thuận lợi cũng như thành tựu thủy lợi của thời kỳ này. Người Babylon không những tự cung cấp được lương thực mà còn có một lượng dồi dào để thông thương buôn bán với các khu vực khác. Vua Hammourabi ra lệnh đào một con sông tưới cho cả vùng rộng lớn Akkad. Thủ công nghiệp có nghề làm gạch, luyện kim, đồ trang sức, đệt, da, đóng thuyền, xây dựng... bên cạnh một nền thương mại phát triển giúp cho vùng Babylon càng thêm giàu có và phát triển.
Về chính trị: Từ thời Hammorabi, các vua Babylon tự coi mình là hiện thân của thần thánh. Vua tự đồng nhất mình với việc kế vị các vị thần cho nên vương quyền và thần quyền hòa quyện với nhau, tạo thành một chế độ độc đoán chuyên chế và thần bí.
Một phiến đá văn bản luật thời Babylon
Văn hoá của Babylon cổ là sự giao hòa giữa hai yếu tố Sumer và Akkad. Sự ra đời bộ luật Hammorabi và được khắc trên một tấm đá bazan cao 2,25m, đường kính đáy gần 2m. Bộ luật Hammorabi 1728 trước Công nguyên là bộ luật thành văn cổ nhất thế giới, có ảnh hưởng tới pháp chế của những dân tộc phương Đông cổ. Phía trên mặt trước của tấm đá được khắc hình thần Mặt Trời ngồi trên ngai trao bộ luật cho vua Hammorabi đứng đón một cách trịnh trọng. Phiến đá này được người Pháp tìm thấy ở kinh đo của xứ Elam cổ, hiện nay đang được lưu giữ ở bảo tàng Louvre.
Kiến trúc Của người Ả Rập có nhiều thành tựu đáng trọng. Huyền thoại các cung điện nguy nga tráng lệ và những câu chuyện cổ tích thần tiên đã tô điểm cho thế giới Ả Rập thần bí và là những tuyệt tác của nhân loại. Kiến trúc Ả Rập là tinh hoa pha trộn và sáng tạo của các luồng kiến trúc Địa Trung Hải và văn minh sông Hằng xa xội. Thành phố Babylon được bao quanh bởi một bức tường màu vàng dài 13km và có 300 tháp canh.
(NTO.vn tổng hợp)
♥ Nguồn : www.nto.vn
Vườn treo Babylon
Vườn treo Babylon (cũng được gọi là Vườn treo Semiramis) và những bức tường của Babylon (Iraq hiện nay) từng được coi là một trong Bảy kỳ quan của thế giới. Chúng được cho là do vua Nebuchadnezzar II xây dựng nên từ khoảng năm 600 TCN .
Vườn treo được ghi chép lại rất nhiều trong các tài liệu của các nhà sử học Hy Lạp như Strabo và Diodorus Siculus, nhưng mặc khác lại có ít bằng chứng về sự hiện diện của chúng. Trên thực tế, không hề có bản ghi chép nào của người Babylonia về sự tồn tại của những chiếc vườn như vậy. Một số (chi tiết) bằng chứng thu thập được khi khai quật cung điện tại Babylon thể hiện, nhưng không hoàn toàn chứng minh được nó giống những miêu tả. Một số trường phái tư tưởng qua nhiều thời kỳ có thể đã nhầm lẫn vị trí của nó với những vườn đã tồn tại ở Nineveh và việc phát hiện những phiến đá chứng minh cho sự tồn tại của nó đã được tìm ra. Những đoạn văn trên những phiến đá đó miêu tả khả năng sử dụng một thứ gì đó tương tự như một máy bơm kiểu đinh vít của Archimedes để đưa nước lên độ cao cần thiết.
Vườn treo, theo sự thể hiện của người Assyria
Một vườn treo, thể hiện ở thế kỷ 21
Một miêu tả từ thế kỷ 16 về Vườn treo Babylon (bởi Martin Heemskerck). Bạn có thể thấy Tháp Babel ở phía sau.
Theo những miêu tả, các vườn treo được xây dựng nên để cho người vợ của Nebuchadnezzar là Amyitis khuây nỗi nhớ quê hương. Amyitis là con gái vua Uvaxshtra của Đế quốc Mada, đã cưới Nebuchadnezzar để tạo nên một liên minh giữa hai nước. Quê hương bà là một vùng đất xanh tươi với những núi non hùng vĩ, và bà coi vùng đất Lưỡng Hà (một vùng ở phía Tây Nam Châu Á) bằng phẳng bị mặt trời thiêu đốt là buồn chán. Nhà vua quyết định tái tạo lại quê hương hoàng hậu bằng cách xây nên một vùng núi non nhân tạo bằng những vườn treo trên mái nhà.
Vườn treo có thể không thực sự là "treo" theo nghĩa là nó được treo lên bằng các loại dây. Tên của nó bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ kremastos trong tiếng Hy Lạp hay từ pensilis trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như trường hợp một sân thượng hay một ban công.
Nhà địa lý Hy Lạp Strabo, người đã miêu tả những vườn đó vào thế kỷ thứ nhất TCN đã viết: “Nó gồm những ban công xây hình vòm, cái nọ chồng trên cái kia, và tựa trên các cột hình khối. (Nó) Có những chỗ lõm vào và được đổ đất vào đó để trồng được những cây lớn. Các cột, vòm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường.”
Những cuộc khai quật gần đây tại thành phố Babylon cổ ở Iraq đã phát hiện ra móng của cung điện. Những thứ khác gồm Toà nhà hình vòm với những bức tường dày và một giếng nước tưới gần cung điện phía nam. Một nhóm các nhà khảo cổ đã khảo sát khu vực đó của cung điện phía nam và tái hiện lại Toà nhà hình vòm như là những Vườn treo. Tuy nhiên, nhà sử học Hy Lạp Strabo đã nói rõ rằng vườn nằm gần sông Euphrates. Vì thế những người khác cho rằng vị trí này quá xa Euphrates để ủng hộ giả thuyết đó vì Toà nhà hình vòm cách xa đó tới vài trăm mét. Họ tái hiện lại của cung điện và vị trí Vườn treo nằm trải dài từ sông tới Cung điện. Trên hai bờ sông, gần đây người ta đã tìm thấy nhiều bức tường dày 25m có thể từng là những bậc để tạo nên các sân thượng, v.v... những bức tường như được miêu tả trong các văn bản Hy Lạp.
Một phần lớn tàn tích đã bị hư hại trong chiến dịch lật đổ chế độ Iraq do Mỹ tiến hành
2. Văn minh Tây Á là sự tổng hợp, hội tụ của nhiều nền văn minh. Những nền văn minh ấy vừa có sắc thái riêng, vừa có sự kế thừa và phát triển, đồng thời tác động lẫn nhau.
Vùng Tây Á là nơi xuất hiện rất sớm nhiều quốc gia có nền văn minh nổi tiếng như Lưỡng Hà, Babylon, Assyria, Phoenicia, Palestine... Lưỡng Hà là vùng thung lũng giữa hai con sông Tigre và sông Euphrate. Vùng này nổi tiếng là vùng đất phì nhiêu, thuận lợi cho nền sản xuất nông nghiệp như trồng nho, ôliu, đại mạch và nhiều loại sản vật nông nghiệp khác. Những cư dân đầu tiên sinh sống ở vùng này bắt đầu từ rất sớm. Vùng Lưỡng Hà có khí hậu nóng ẩm, thực vật phong phú đa dạng. Hàng năm, vào tháng 5, nước lũ của hai con sông tràn ngập, sau khi nước rút, một lượng phù sa dày trải dài trên đồng bằng rộng lớn và bằng phẳng. Yếu tố môi trường thuận lợi cho các cư dân khác nhau đổ về và sự đa dạng về nguồn gốc cũng là yếu tố khiến cho vùng này rất khó thống nhất về mặt lãnh thổ.
Chính nơi đây, những cư dân đầu tiên, di cư từ phương Đông, từ thiên niên kỷ IV trước Công Nguyên sinh sống và sáng lập nên nền văn minh cổ đại đầu tiên ở lưu vực này. Những cư dân này được gọi là người Sumer.
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, kéo theo sự phân hóa xã hội Sumer. Vào đầu thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên, trên vùng đồng bằng phía Nam của Lưỡng Hà đã xuất hiện các đô thị. Những đô thị kết hợp với các vùng sản xuất nông nghiệp phụ cận xung quanh hình thành các quốc gia độc lập vào buổi ban đầu.Người đứng đầu các quốc gia là Patêsi. Hội đồng bô lão và Hội nghị nhân dân có quyền bầu các quan chức và quyết định các vấn đề quan trọng. Thế kỷ 25 trước Công Nguyên, quốc gia Lagate thống nhất được vùng Lưỡng Hà và sau đó quyền bá chủ Sumer lại rơi vào tay quốc gia Uruk.
Văn minh cổ Babylon
Cuối thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên, lợi dụng sự suy sụp của Lưỡng Hà, hai tộc người Elam và ngườiAmorites xâm lược tàn phá và cướp bóc. Người Amorites xây dựng hai quốc gia về phía Nam của Lưỡng Hà là Ixine và Laxa; ở phía Bắc của Lưỡng Hà cũng hình thành các quốc gia Esnunna và Marie. Đến lượt các quốc gia trên tranh dành và gây chiến với nhau liên miên, gây nên cảnh đổ nát hoang tàn.
Vào khoảng đầu thế kỷ XIX trước Công Nguyên, người Amorites thống nhất Bắc Lưỡng Hà và hình thành quốc gia cổ Babylon (khác với Tân Babylon sau này) và họ đã thống nhất được khu vực Lưỡng Hà. Quốc gia Babylon cổ nằm trên đường giao lưu quan trọng nối châu Á rộng lớn sang Địa Trung Hải, châu Phi và châu Âu.
Sự cường thịnh và hùng mạnh đạt đến cao điểm vào thời kỳ 1792-1750 trước Công Nguyên, dưới triều đại vua Hammourabi. Nhà nước cổ Babylon thống nhất trên một diện tích lãnh thổ toàn bộ Lưỡng Hà và bị suy sụp vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ II trước Công Nguyên bởi người Catsites nổi dậy và làm chủ hầu hết lãnh thổ củaBabylon.
Thành tựu văn minh Babylon
Thành phố Babylon được bao quanh bởi một bức tường màu vàng dài 13 km và có 300 tháp canh.
Đỉnh cao và chiếm về mức độ vĩ đại là một trong bảy kỳ quan cổ của người Babylon: Vườn treo Babylon.
Văn minh cổ Assyria và Tân Babylone
Assyria là vùng đất có lịch sử xa xưa ở phía thượng nguồn sông Tigris, tên gọi lúc đầu của thủ đô chính là TP cổ Assur. Về sau, giống như vương quốc, đế chế tiến lên khai phá một phần phía Bắc Lưỡng Hà (một phần phía Nam Babylonia. Thủ đô là Nineveh.
Thực chất Assyria là một vùng nhiều đồi núi, trải dài theo sông Tigris cho đến tận cao nguyên Gordiaean hoặc ngọn núi Carduchian của Armenia, có một thời được gọi là "Vùng núi của Ashur".
Các vị vua của Assyria cai trị một vương quốc rộng lớn trong ba giai đoạn lịch sử, được gọi theo cổ xưa, giữa và vương quốc Assyria mới (Neo-Assyrian). Nhưng phát triển rực rỡ nhất của Assyria chính là thời kỳ Tân Assyria, niên đại: 911-12 TCN.
Ngôn ngữ
Thời cổ đại, dân chúng Assyria nói một thứ thổ ngữ Assyrian của ngôn ngữ hệ Akkadian, một nhánh của hệ Semitic. Bản khắc đầu tiên, gọi là Assyria Cổ xưa (OA), được làm ra dưới thời Cổ Assyria (Old Assyrian). Đến thời Tân Assyria ngôn ngữ hàng ngày của Assyria đã vững chắc là tiếng Syria. Vào thời cổ đại, người Assyria luôn sử dụng ngôn ngữ Samer trong các tác phẩm văn học của họ.
Thành tựu văn hóa Tân Assyria
Những tác phẩm hội họa của Assyria được truyền lại cho đến ngày nay, chủ yếu là các tác phẩm dưới thời Tân Assyria. Chạm khắc đá ở các bức tường hoàng gia có nguồn gốc nước ngoài chính là các chiến lợi phẩmcủa các vị vua. Có rất nhiều di vật chạm khắc đá ở gần khu hoàng gia ở Nimrud (Kalhu) và Khorsabad (Dur-Sharrukin).
Nghệ thuật điêu khắc đặc biệt phát triển rực rỡ dưới thời Tân Assyria. Di vật còn lại bao gồm có bức tượng Bò có cánh mặt người Lamassi hay những linh vật shedu canh gác trước cổng đi vào cung điện của vua.
Thiên văn học của Tân Assyria cũng có những tiến bộ kinh ngạc, người Assyria đã biết chế tạo thấu kính (Nimrud lens) và những quan niệm về vũ trụ đang được các nhà cổ sử khám phá và khẳng định.
Di sản khoa học và văn hóa tự người Assyria không có nhiều, nhưng họ biết kế thừa từ các thành tựu củaBabylonia cổ và phát huy lên. Rất nhiều văn học của Babylonia, với nguồn gốc từ văn minh Samer được bảo quản và giữ gìn ở các thư viện của Syria. Người Assyria cũng nghiên cứ về sự vận động của các vì sao và có những dự báo về chúng. Người Assyria cũng dành được rất nhiều các thành tựu về kỹ nghệ, họ biết xây đập nước và các kênh đào mà cho đến nay vẫn còn giá trị. Tuy nhiên, người Assyria vẫn giữ các nét đặc trưng khá biệt lập ở các nhóm cư dân cho đến ngày nay ở phía Bắc Iraq ngày nay. Họ vẫn giữ gìn các phẩm chất đặc trưng Ả Rập, Kusdish, Thổ Nhĩ Kỳ hàng xóm qua giao lưu. Tôn giáo của người Assyria chủ yếu là đạo Cơ Đốc.
Văn minh Tân Babylonia
Qua một trăm năm thống trị của Asyria, người dân Babylonia vẫn hướng về nền văn minh rực rỡ của mình. Cuối cùng, vào năm 627 TCN, với việc triều đại cuối, Ashurbanipal bị chết, Babylonia đã dành lại được sự thống trịcủa mình với Nabopolassar, cuối cùng vương quốc Babylonia được phục hồi mở ra thời kỳ Tân Babylonia, năm 612 TCN.
Các thời kỳ của Tân Babylonia (Chaldean):
Nabu-apla-usur (Nabopolassar) 626 - 605 TCN
Nabu-kudurri-usur (Nebuchadrezzar) II 605 - 562 TCN
Amel-Marduk 562 TCN - 560 TCN
Nergal-šar-usur (Nergal-sharezer) 560 TCN - 556 TCN
Labaši-Marduk 556 TCN
Nabu-na’id (Nabonidus) 556 TCN - 539 TCN
Thời kỳ Tân Babylonia có những thành tựu nổi bật cùng với thành tích của Nabopolassar, ông đã tích cực tái thiết lại Babylon do bị tàn phá bởi các thời kỳ dưới sự cai trị trước đó của người Assyria. Mục đích củaNabopolassar là xây dựng thủ đô của đế chế mới trở nên lộng lẫy hơn và tham vọng để trở thành kỳ quan trên thế giới. Các đền đài cũ được xây dựng lại, các cung điện với vẻ tráng lệ, nguy nga kinh ngạc đượng xây dựng lên dưới thời ông cùng với rất nhiều đền thờ các vị thần của Babylon được dựng lên (theo sử Hy Lạp viết bởi Diodorus của Sicilia và Herodotus). Cung điện của Nabopolassar được xây dựng bởi các chất liệu cực kỳ quý hiếm và rộng lớn.
Bên cạnh thành phố có những công trình lộng lẫy như Vườn treo Babylon và Tháp Babel huyền thoại với đường kính chân tháp đến 91 mét.
Năm 539 TCN Tân Babylonia bị Đế quốc Ba Tư xâm lược và nền văn minh Babylonia sụp đổ.
Văn minh Phoenicia và Palestine
Phoenicia là một nền văn minh ở phía Bắc của Canaan cổ xưa, với trung tâm kéo dài suốt bờ biển của Liban và Syria ngày nay. Văn minh Phoenicia có một nền kinh tế buôn bán hàng hải dọc bờ biển Địa Trung Hải phát triển sớm từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Người Phoenicia có một nền nông nghiệp sớm như đánh bắt cá, chăn nuôi, các loại cây trồng: ôliu, nho và lúa mì. Người Phoenicia rất gan dạ và can đảm, họ giỏi trong nghề hàng hải và buôn bán.
Dải đất Phoenicia nằm giữa các nền văn minh: Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp nên có rất nhiều điều kiện thông thương và phát triển. Họ làm chủ con đường buôn bán từ Đông sang Tây từ đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ 6 TCN.
Văn hóa của văn minh Phoenicia thường được xem như là trung gian chuyển tải giữa các nền văn minh lớn và họ cũng rất thành công trong các văn hóa nghệ thuật của mình. Nghệ thuật tạo hình của người Phoenicia có một chỗ đứng vững chắc và để lại nhiều ảnh hưởng lên vùng Trung Đông và Ả Rập... Tôn giáo của ngườiPhoenicia gắn chặt với tôn giáo Lưỡng Hà và thần linh của người Phoenicia là vị thần Baal nổi tiếng hung ác và gây hại, nên người Phoenicia có tập tục phải làm lễ hiến tế vị thần này.
Thành tích nổi bật nhất của người Phoenicia là hệ thống chữ viết với bảng chữ cái Phoenicia. Ban đầu họ vay mượn chữ tượng hình của người Ai Cập và chữ hình định của người Lưỡng Hà để ghi chép, nhưng về sau họ giản lược các ghi chú thành 22 ký tự về sau trở thành 22 chữ cái, thể hiện các phụ âm và nguyên âm. Công trình bảng chữ cái này được người Phoenicia phát minh ra trong khoảng từ thế kỷ 14 TCN đến thế kỷ 12 TCN. Trong quá trình giao lưu, buôn bán, hệ thống chữ cái này được truyền vào Hy Lạp cổ đại và từ đó hệ thống chữ cái phát triển thành nhiều nhánh khác nhau.
Israel và Judah cổ xưa
Có rất nhiều nguồn về các tài liệu cổ và hiện dại có nói đến lịch sử của Israel và Judah. Ví dụ, những văn bản như Kinh Cựu Ước (Tanakh), tập hợp Talmud của người Do Thái, những bản viết của Nicolaus củaDamascus... Ngày nay giới khảo cổ học đã khám phá ra các chứng cứ và vết tích cùng với người Ai Cập cổ đại, người Assyria và người Babylon.
Các tài liệu nói đến vùng Palestine như là một vùng nhiều xung đột về cách viết và quan điểm đang tranh cãi. Nhưng một thực tế rằng vùng này cũng là một trung tâm văn minh cổ có lịch sử gắn liền với nhiều trung tâm văn minh khác ở vùng Trung Cận Đông và Đại Trung Hải.
Khởi đầu của vùng đất này được nhắc đến trong quyển đầu của Kinh Cựu Ước là vào năm 1800 TCN, gọi là thời kỳ tộc trưởng Abraham và đóng lại bởi con trai của Shem.
Kết thúc thời kỳ 12 bộ lạc của Israel tiếp theo là thời kỳ Ai Cập cổ đại thống trị từ năm 1630 TCN, bởi triều đại Hyksos. Sự cai trị của người Ai Cập cổ đã dẫn đến sự kiện người Do Thái rời bỏ đất Israel của người Ai Cập (còn gọi là sự kiện Exodus). Sự kiện này hiện đang gây nhiều tranh cãi về niên đại nghiên cứu.
Tiếp theo là thời kỳ vô định của người Do Thái mà nhiều tài liệu cổ có nhắc đến cho đến năm 1500 TCN. NgườiDo Thái (Hebrews) di cư đến Canaan vào khoảng 1200 TCN và trải qua nhiều khó khăn, xung đột, người Do Thái đã xác lập được một lãnh thổ rộng lớn ở vùng Syria, Liban và Judar.
Năm 922 TCN Vương quốc Israel bị chia cắt, Judar ở về phía Nam của vương quốc. Về sau Vương quốc Israel bị sụp đổ bởi người Assyria vào năm 721 TCN.
3. Lịch sử thành cổ Babylon
TTO - Khi đề cập đến sự phồn thịnh của một đất nước, nhiều người thường nghĩ đến những lâu đài xa hoa lộng lẫy, những vùng đất nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú như rừng cây, quặng mỏ và thời tiết khí hậu ôn hòa…
Nhưng đối với Babylon, một vương quốc giàu có bậc nhất thời cổ đại, thì không phải như vậy! Vương quốc Babylon tọa lạc bên cạnh dòng sông Euphrate, trong một thung lũng bằng phẳng, nhưng khô cằn và nắng hạn. Nó không hề có những rừng cây, quặng mỏ và đá để xây dựng các công trình quân sự hay dân sự, cũng không nằm trên con đường giao thương thuận lợi.
Babylon là một điển hình nổi bật của khả năng con người có thể đạt tới những mục tiêu vĩ đại, bằng cách sử dụng tất cả các phương tiện mà mình có được. Sự phát triển của cả thành phố rộng lớn này đều chỉ do bàn tay con người vun đắp. Tất cả sự giàu có của nó là nhờ ở con người.
Babylon chỉ có một điểm thuận lợi duy nhất là đất đai khá phì nhiêu do dòng sông Euphrate mang nhiều phù sa bồi đắp hàng năm. Nhưng để tận dụng được sự ưu đãi này, những người kỹ sư thời Babylon cổ đại đã phải nghiên cứu và thực hiện một công trình vĩ đại nhất thời bấy giờ. Đó là xây dựng những đập nước và vô số những kênh đào nhỏ để dẫn nước từ con sông chính vào khắp làng mạc, biến những vùng đất khô cằn thành vùng đất trồng trọt tốt. Nhờ vậy, người dân Babylon mới có thể cày cấy, trồng trọt và chăn nuôi, có được cuộc sống sung túc, giàu có trên mảnh đất quê hương mình. Đây là một trong những công trình xây dựng đầu tiên có tầm mức vĩ đại được biết đến trong lịch sử loài người.
Điều may mắn là trong suốt thời kỳ tồn tại lâu dài của mình, Babylon không sản sinh ra các vì vua tham bạo có ước vọng chinh phục toàn thế giới. Những khi Babylon lâm vào chiến tranh thì hầu hết đó là những cuộc chiến tự vệ chống lại những kẻ thù đầy tham vọng ở các xứ sở khác bị hấp dẫn bởi những kho tàng bạc vàng, châu báu của Babylon mà đem quân xâm chiếm.
Năm ngàn năm sau, mặc dù Babylon không còn, nhưng nó đã trở thành huyền thoại thu hút sự tìm hiểu của mọi người. Ngày nay, những dấu tích thành cổ Babylon còn sót lại nằm ở châu Á, cách khoảng sáu trăm dặm về phía Đông của kênh đào Suez, thuộc hướng Bắc của vịnh Ba Tư. Nó nằm ở khoảng kinh độ 30, phía trên đường xích đạo, có khí hậu nóng và khô. Những thành quách đền đài đã biến mất, chỉ còn lại những phế tích đổ nát và vắng lặng.
Ngày xưa, thung lũng bên dòng sông Euphrate là một vùng đất nông nghiệp có hệ thống tưới tiêu hết sức quy mô, dân cư đông đúc, nay đã trở thành vùng sa mạc khô cằn, lác đác với những bụi cây cằn cỗi, những đám cỏ dại đang đối đầu với gió cát để tồn tại. Những nghĩa địa của loài voi cổ đại cùng với những đoàn lữ hành dài dằng dặc của các thương gia thành Babylon cũng chỉ còn là huyền thoại. Ngày nay, trên vùng đất này, thỉnh thoảng chúng ta gặp những nhóm dân du mục Ả Rập cố gắng duy trì cuộc sống khổ cực của mình một cách khó khăn nhờ vào việc chăn nuôi những bầy gia súc nhỏ.
Tuy nhiên, đã nhiều thế kỷ trôi qua, những người dân du mục, những nhà lữ hành đi ngang qua vùng đất này vẫn không thấy điều gì khác lạ và cũng không biết rằng, bên dưới vùng đất này đang che giấu những dấu tích của một thời đại huy hoàng. Cho đến khi những nhà địa chất thu thập được nhiều mảnh gốm và gạch vỡ do những cơn mưa xói mòn đất đá phơi bày ra. Sau đó, những đoàn thám hiểm châu âu, châu Mỹ bắt đầu ồ ạt tiến đến khai quật và tìm kiếm. Và họ đã vui mừng phát hiện ra những dấu tích còn sót lại của thành cổ Babylon.
Babylon là một trong những vương quốc cổ đại được xây dựng bằng đất và gạch nung, trải qua thời gian hàng nghìn năm, những bức tường thành dãi dầu nắng gió đã bị tan rã và quay trở về với đất cát. Nếu không nhờ sự phát hiện và khai quật cẩn thận của những nhà khảo cổ, có thể chúng ta sẽ không bao giờ được biết đến những công trình vĩ đại, những đền đài cung điện nguy nga tráng lệ xưa kia của Babylon đã bị vùi sâu hàng bao nhiêu thế kỷ.
Nhiều nhà khoa học đã xem nền văn minh của Babylon và những đô thị khác trong thung lũng sông Euphrate là những thành thị cổ xưa nhất. Dựa vào các cổ vật đã khai quật được, trong đó có những mảnh đất sét nung miêu tả hiện tượng nhật thực mà người Babylon cổ đại đã chứng kiến, các nhà thiên văn học hiện đại xác định được thời điểm xảy ra và khẳng định nền văn minh Babylon cách thời đại chúng ta khoảng 8.000 năm về trước.
Cũng nhờ vào các cổ vật, chúng ta có thể biết được rằng cách đây 8.000 năm, những người Sumerite đã từng sống tại Babylon. Họ cư ngụ trong một lãnh thổ có các tường thành bao bọc. Những nhà khoa học chỉ có thể phỏng đoán Babylon phải trải qua một thời gian rất dài trước khi đạt được các thành tựu nổi bật như thế. Vào thời kỳ này, họ đã biết xây dựng những bức tường thành vững chắc để bảo vệ đất nước, cùng một hệ thống thủy lợi quy mô để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cày cấy, trồng trọt. Ngoài ra, cư dân Babylon cũng đã có hệ thống giáo dục với những con người có tinh thần sáng tạo, ham học hỏi. Những chứng tích còn lại cho thấy Babylon là nơi sản sinh những kỹ sư đầu tiên, những nhà thiên văn học đầu tiên, những nhà toán học đầu tiên, những nhà tài chính đầu tiên, và là dân tộc đầu tiên có chữ viết.
Các nhà khoa học rất chú ý đến hệ thống kênh đào của người Babylon cổ đại. Nó đã làm biến đổi vùng thung lũng khô cằn thành một vùng đất trồng trọt, chăn nuôi phì nhiêu. Theo những dấu tích để lại, các nhà khoa học cho biết, các con kênh, các đường mương rất lớn, hơn mười con ngựa có thể chạy hàng ngang dưới lòng kênh. Về mặt kích thước, chúng có thể được so sánh với những con kênh lớn nhất tại Colorado và Utah hiện nay.
Ngoài việc xây dựng công trình thủy lợi nhằm dẫn nước vào những vùng đất nằm bên trong thung lũng, những kỹ sư của Babylon cũng hoàn thành một công trình khác có quy mô lớn không kém. Đó là hệ thống tiêu úng nước khá phức tạp và hiệu quả. Với hệ thống này, họ đã làm khô cạn vùng đầm lầy rộng lớn nằm gần các con sông Euphrate và Tigris để biến chúng thành những vùng trồng trọt màu mỡ.
Herodotus, nhà du hành và nhà sử học của Hy Lạp, đã từng viếng thăm Babylon. Những ghi nhận của ông để lại đã giúp ích cho chúng ta rất lớn trong việc tìm hiểu những phong tục kỳ lạ, những đặc điểm đất đai phì nhiêu và mùa màng bội thu của các cư dân ở đó.
Những vinh quang của Babylon giờ đây không còn nữa, nhưng những kiến thức của họ vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Những kiến thức đó được lưu giữ trong hàng trăm ngàn thẻ đất sét nung mà các nhà khảo cổ tìm thấy - được chôn vùi một cách an toàn trong đất cát. Vào thời kỳ đó, giấy viết chưa có, cư dân Babylon đã cẩn thận ghi khắc tri thức của họ trên những tấm thẻ đất sét còn ướt. Sau đó, họ đem nung chín và cất giữ. Những tấm thẻ đất sét này có kích thước khoảng 15cm x 20cm, dày 2cm - 3cm. Nội dung khắc trên đó rất đa dạng, bao gồm các truyện truyền kỳ, thi ca, lịch sử, những chỉ dụ của triều đình, luật lệ của đất nước, các chứng khoán ruộng đất, các giấy hứa trả nợ, những lá thư viết để gửi tới cho những vương quốc lân cận…
Ngoài các công trình thủy lợi, Babylon có một thành tựu nổi bật thường được mọi người nhắc đến. Đó là công trình xây dựng bức tường thành rộng lớn bao bọc vương quốc. Quy mô xây dựng của nó có thể sánh ngang với các kim tự tháp vĩ đại ở Ai Cập. Đối với công trình này, nữ hoàng Semiramis được xem là người có công đầu tiên. Các nhà khảo cổ hiện đại vẫn chưa tìm được dấu tích của những bức tường thành nguyên thủy, nhưng theo số liệu từ các cổ vật khai quật được cho biết, chúng cao khoảng 15 đến 18 mét, mặt ngoài ốp bằng gạch nung, lại được bảo vệ bên ngoài bởi một đường hào sâu.
Sau này, khoảng sáu trăm năm trước Công nguyên, vua Nabopolassar đã cho xây lại thành Babylon với quy mô rất lớn. Tuy nhiên, vua Nabopolassar đã mất trước khi nhìn thấy công trình hoàn tất. Vua Nebuchadnezzar lên ngôi và đã tiếp tục thực hiện công trình còn dang dở của cha mình.
Khi hoàn tất, chiều cao và chiều dài của tường thành khiến nhiều người không thể tin được. Theo số liệu được ghi lại, chúng cao khoảng 48 mét, tương đương với chiều cao của một tòa nhà gồm 15 tầng ngày nay. Tổng chiều dài của nó ước tính khoảng 14.400 đến 17.600 mét. Bề mặt thành rất rộng, có thể đủ cho sáu con ngựa chạy hàng ngang trên đó. Sau này, khi chiếm được vương quốc Babylon, người Ả Rập đã tàn phá nó bằng cách gỡ lấy gạch ngói để xây dựng đền đài, cung điện, nhà cửa và các công trình khác. Bức tường thành đồ sộ này ngày nay chỉ còn dấu vết của phần móng và hào nước.
Vương quốc Babylon được tổ chức theo một hệ thống khá tân tiến và chặt chẽ. Trong thành có những con đường, phố xá và nhiều cửa hàng lớn cố định. Những người bán lẻ thì mang hàng hóa đi khắp nơi rao bán. Tôn giáo được tôn vinh bằng những đền đài nguy nga tráng lệ. Nằm giữa vương quốc là một hoàng thành bao gồm các lâu đài của hoàng gia. Bức tường thành bao bọc hoàng thành thường cao hơn bức tường thành của vương quốc.
Về nghệ thuật, cư dân Babylon đã đạt được những thành tựu rực rỡ trong kiến trúc, hội họa, dệt, thêu, chế tác vàng bạc, chế tác những đồ binh khí bằng kim loại và những công cụ dùng cho nông nghiệp. Những người thợ kim hoàn đã chế tạo được những đồ trang sức rất đẹp và tinh xảo. Hiện nay, những bảo tàng nổi tiếng nhất thế giới đang trưng bày nhiều cổ vật được khai quật lên từ hầm mộ của những công dân giàu có thời kỳ Babylon.
Cách đây khoảng 8.000 năm, trong khi những nhóm người cổ đại khác trên thế giới chỉ biết sống trong các hang động, chặt cây bằng những cái rìu thô sơ, săn bắt thú bằng những mũi tên có gắn một mảnh đá sắc nhọn hoặc đánh nhau bằng gậy gộc, thì người Babylon cổ đại đã băt đầu biết xây dựng lâu đài, thành quách; dùng những chiếc rìu, thanh giáo bằng sắt thép cùng những mũi tên có đầu bịt bằng đồng.
Cư dân Babylon là những nhà tài chính, những thương gia giàu kinh nghiệm. Tài liệu khai quật được cho biết họ là những người đầu tiên biết sử dụng vàng bạc làm phương tiện trao đổi, biết dùng những tấm thẻ ghi nợ, hoặc ghi nhận tài sản sở hữu của mình.
Từ khoảng năm 540 trước Công nguyên trở về trước, không có một đạo quân xâm lược nào chiếm được Babylon. Thành Babylon vẫn kiên cố trước bất kỳ một sức mạnh quân sự nào. Về sau, nguyên nhân sụp đổ của vương quốc Babylon rất lạ lùng và khá bí ẩn. Vào thời đó, Cyrus, một trong những vị vua có tham vọng chinh phục các vương quốc lân cận, thể hiện ý đồ xâm lược Babylon. Những cố vấn của nhà vua Nabonidus đang trị vì xứ Babylon lúc bấy giờ thuyết phục rằng, thay vì chờ đạo quân của Cyrus đến bao vây thành, thì tốt nhất nên đem quân đi giao chiến. Nabonidus đã không suy tính kỹ nên đã cho xuất quân. Hậu quả là quân của Babylon liên tục bị thất bại. Nabonidus đành bỏ thành và chạy trốn khỏi vương quốc. Do thế, Cyrus đã chiếm lấy Babylon mà không gặp bất kỳ một sự kháng cự nào.
Từ đó, sức mạnh và sự nổi tiếng của thành Babylon cũng dần tàn lụi. Theo thời gian, nó trở nên hoang phế, vắng lặng và bây giờ chỉ còn là vùng đất hoang mạc đầy gió cát. Một lần nữa, Babylon lại trở về với đất, nơi đã sinh ra nó. Sự hoành tráng, đồ sộ và nguy nga của thành Babylon chỉ còn là huyền thoại…
Có thể nói, những thành quách hùng vĩ cùng những đền đài, cung điện nguy nga của Babylon đã trở thành cát bụi, nhưng những tri thức, những kinh nghiệm khôn ngoan, những thành tựu nổi bật của vương quốc cổ đại này vẫn còn lưu truyền cho đến tận bây giờ. Có lẽ, dù được mệnh danh là bất khả xâm phạm trước quân thù, nhưng thành Babylon vẫn không tránh khỏi quy luật sinh - diệt của thời gian. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, nền văn minh Babylon đã trở thành một dấu ấn quan trọng đối với sự tiến bộ vượt bậc của con người ở các kỷ nguyên sau này.
GEORGE S.CLASON
Nguồn: Người giàu có nhất thành Babylon - First News và NXB Tổng hợp TPHCM phối hợp ấn hành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét