Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012

Trung Quốc khai quật mộ cổ thời Tây Hán


Trung Quốc khai quật mộ cổ thời Tây Hán




(GDVN) - Ngày 18/4 Cục Văn vật khảo cổ Thiểm Tây công bố bộ ảnh cổ vật quý vừa khai quật từ ngôi mộ cổ thời Tây Hán tọa lạc tại phía bắc thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh này. Đây là ngôi mộ cổ có quy mô khá lớn và hiếm gặp thời Tây Hán, chủ nhân của nó là ai vẫn còn là câu hỏi bí mật mà các nhà khảo cổ học đang nỗ lực tìm kiếm lời giải. Trong đợt khai quật này các nhà khảo cổ đã phát hiện 6 đỉnh gốm rất đẹp và còn nguyên vẹn, đại bộ phận đồ tùy táng đều được làm từ chất liệu đồng hoặc gốm khá tinh xảo.

Đỉnh và thạp cổ chất liệu gốm da lươn tinh xảo

Đồ cổ chất liệu đồng xanh còn nguyên vẹn
Đỉnh gốm men ngọc
Bát gốm
Toàn cảnh khu mộ cổ được khai quật
Hầm mộ chính
Đồ tùy táng trong hầm mộ
Chữ viết lưu lại trên vách mộ

Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2012

Chính sách của Trung Quốc đối với Bắc Triều Tiên


Chính sách của Trung Quốc đối với Bắc Triều Tiên




Gã đàn ông dâm đãng vẫn đang chờ đợi, cho dù buồn thay, ngay cả khi không thấy bóng dáng của người tình hờ. 

Đó là hình ảnh của nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên, Kim Chân In, người đang phải ngóng chờ sự cứu trợ, mà không phải lúc nào cũng sẵn lòng từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Tuy nhiên, ngoài việc đưa ra một số chi tiết chưa được biết về ông Kim hoặc quan hệ giữa ông ta với Trung Quốc thì các tài liệu ngoại giao của Mỹ được Wikileaks tiết lộ tuần qua cũng chỉ làm tăng thêm các dự đoán và nhận định xưa cũ khi phân tích về quan hệ Trung Quốc - Bắc Triều Tiên.

Các tài liệu được tiết lộ cho thấy nhận định bất ngờ, giật gân rằng: Trung Quốc chấp nhận việc tái thống nhất Triều Tiên, dưới sự kiểm soát của Hàn Quốc. Trung Quốc đồng ý với ý tưởng Triều Tiên thống nhất. Tuy nhiên, trong thực tế Trung Quốc luôn sẵn sàng hậu thuẫn cho hầu hết các hành động ngổ ngáo của người đồng minh Bắc Triều tiên, để tránh cho nước này sụp đổ hay bị sát nhập bởi đồng minh của Mỹ là Hàn Quốc. Thậm chí, trong năm nay, Trung Quốc đã từ chối không lên án hành động đánh đắm tàu tuần tra Cheonan của Hàn Quốc vào tháng Ba, tiết lộ về cơ sở làm giàu uranium bí mật và vụ pháo kích vào đảo của Hàn Quốc tháng trước.

Thực tế các đề tài đồn đoán về việc Trung Quốc thay đổi quan điểm đối với việc Hàn Quốc nắm quyền kiểm soát Triều Tiên sai lệch với phân tích tìm thấy ở nguồn điện tín vào tháng Giêng năm nay của ông Chun Yung-woo, người đã trở thành cố vấn an ninh quốc gia của Hàn Quốc. Ông Chun chỉ được dẫn đã nói rằng hai quan chức cấp cao của Trung Quốc đã sẵn sàng đối diện với một thực tế mới là Bắc Triều Tiên không còn nhiều giá trị đối với Trung Quốc như là một nước đệm. Theo ông Chun thì quan điểm này đã hình thành kể từ khi Bắc Triều Tiên xấc xược thử vũ khí hạt nhân ở gần biên giới Trung Quốc vào năm 2006.

Một số quan chức Trung Quốc khác cũng đã tỏ ra giận dữ và xấu hổ đối với người đồng minh Bắc Triều Tiên. Bản thân vụ thử vũ khí cũng đã làm cho Trung Quốc có lý do để lo ngại cho việc họ giúp đỡ Triều Tiên sản xuất vũ khí hạt nhân. Hồi tháng Tư năm nay, một Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đã ví nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên như là "một đứa trẻ khó bảo". Hành động ngỗ ngược của ông ta có thể dẫn đến chiến tranh. Tại Hàn Quốc, Tổng thống Le Myung - bak cũng bị chỉ trích vì đã không đáp trả mạnh mẽ hơn trong vụ pháo kích tháng trước. 

Tiếp đến là sự kết tục. Vào những năm 80, người ta nói rằng Đặng Tiểu Bình đã không bằng lòng khi Kim Nhật Thành quyết định chọn người con non nớt, ham thích khoái lạc làm người kế tục mình nắm quyền ở Bắc Triều Tiên. Kim Chân In chọn người con khoảng hơn 20 tuổi của mình làm người kế vị thậm chí còn khó hiểu hơn nữa. Một vài blogger người Trung Quốc đã chỉ trích việc lãng phí tiền bạc viện trợ cho một chế độ gia đình trị đang sụp đổ.

Tuy nhiên, vào tháng Tám, Chủ tịch Hồ Cẩm đào đã bất ngờ thông qua kế hoạch xuất hiện ở một buổi lễ kỹ niệm ở Thượng Hải để gặp mặt ông Kim một cách bất ngờ ở Đông Bắc Trung Quốc nhằm chúc mừng việc chọn người con trẻ kế vị. Trong vụ pháo kích vừa qua, có thể hiểu là Trung Quốc đã ủng hộ Bắc Triều Tiên. Nước này đã kêu gọi cho một cuộc gặp khẩn cấp để chuẩn bị cho việc nối lại đàm phán sáu bên, bao gồm Mỹ, Nhật Bản và Nga cùng với Trung Quốc và hai miền Triều Tiên. Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đã phản đối vì cho rằng nối lại đàm phán trước khi Bắc Triều Tiên có sự nhân nhượng sẽ là một dấu hiệu cỗ vũ cho thái độ hiếu chiến của nước này.

Có ba lý do có thể giải thích cho sự dung túng quá mức của Trung Quốc trước những hành động hiếu chiến của Bắc Triều Tiên. Một là, có thể Trung Quốc tỏ ra thông cảm với việc Bắc Triều Tiên cho rằng mình là bên chịu thiệt thòi. Một cuộc điều tra quốc tế cho rằng Bắc Triều Tiên là thủ phạm của vụ đánh đắm tàu Cheonan đã không xét hết các khả năng về âm mưu đánh đắm tàu này. Triều Tiên luôn cảnh báo về một sự trả đũa đích đáng nếu như cuộc tập trận ở vùng nước tranh chấp, gần bờ biển nước này bao gồm cả việc bắn đạn thật, như là cuộc tập trận hồi tháng mười một. (Trong cuộc tập trận chung ở cùng khu vực vào tuần trước, Mỹ và Hàn Quốc đã hoãn việc diễn tập bắn đạn pháo thật). Thậm chí, cũng khó mà lập luận rằng hành động của Bắc Triều Tiên là hoàn toàn quá mức, không hợp lý và không thể chấp nhận như một học giả Trung Quốc đã từng nói.

Lý do thứ hai đó là quan hệ giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên có thể được ví gần gủi như là môi với răng và điều này đã cấp cho nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên một giấy phép đặc biệt. Trong chuyến thăm Bình Nhưỡng vào năm ngoái, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã đến thăm mộ Mao Ngạn Anh, con trai của Mao Trạch Đông, một chí nguyện quân Trung Quốc hy sinh trong chiến tranh Triều Tiên năm 1950 - 1953.

Lý do này cũng có vẻ không thuyết phục, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không phải là những người ủy mị như vậy và nếu như họ liên minh với Bắc Triều Tiên thì đó phải là vì họ tin rằng liên minh này phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc. Hãy bỏ qua giả thiết rằng những gì ông Chun nói là không xác thực, chỉ là nói những gì mà người nghe muốn nghe, hoặc có lẽ là quá sớm. Ông Chun đã cho rằng đã có một sự thay đổi lớn trong quan điểm của Trung Quốc và nói rằng đoàn đàm phán của Trung Quốc ở vòng đàm phán sáu bên về vấn đề Triều Tiên không phải là một trong những người có quan điểm tiến bộ như ông ta hy vọng, mà vẫn là Vũ Đại Vĩ, một người đàn ông già, được gọi là "quan chức kém năng lực nhất Trung Quốc" và một nhà báo Mỹ đã gọi ông ta như là một "một con người ngạo mạn, một cựu Hồng vệ binh tôn thờ chủ nghĩa Mác". Những cựu Hồng vệ binh ở Trung Quốc dường như vẫn đang là những người quyết định chính sách của nước này đối với Triều Tiên.

Một tài liệu điện tín khác được tiết lộ đã cho biết về cuộc gặp vào năm ngoái giữa một quan chức cấp cao cấp Mỹ với Bộ trưởng cố vấn Singapore Lý Quang Diệu. Tài liệu này tóm tắt đánh giá của ông Lý Quang Diệu là mặc dù không muốn Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân nhưng Trung Quốc thà chấp nhận một Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, thậm chí cả hệ lụy của nó là Nhật Bản cũng sẽ hạt nhân hóa để thay cho việc quân đội Mỹ hiện diện ở biên giới của Trung Quốc.

Bài gốc: http://www.economist.com/node/176334...TOKEN=60424258

Bài này lấy từ The Economist, tiếng Anh thi lại nên dịch không hay và có thể sai. Bạn nào giỏi tiếng anh dịch lại hộ và đưa lên đây cho các bạn tham khảo.

TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH KỂ CHUYỆN LÀM ĐẠI SỨ Ở TRUNG QUỐC


TƯỚNG NGUYỄN TRỌNG VĨNH KỂ CHUYỆN LÀM ĐẠI SỨ Ở TRUNG QUỐC
Phần Một



Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1987. Dưới đây là câu chuyện của ông về thời gian ông làm Đại sứ tại Bắc Kinh.


Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi.

Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt - Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó.

Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến dự.

Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào?).
Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.


Phần Hai


...Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, thì thấy: ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su - xà phòng - thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không chuyển giao cho ta


Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.


Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.


Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc!


Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.


Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” - Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.


Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.


Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự tiện vào”.


Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ đuối lý.
Phần Ba


Một lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh, nhân viên sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không chịu, tôi nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo nguyên tắc quốc tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công ước quốc tế”. Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo thỉnh thị cấp trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành lý.


Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ phải mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do, không kiểm tra hành lý nữa. 
Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả ! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).
Trong trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần Trung Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu tình trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận động để họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và thôi không tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn gái còn ở lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi phải cho người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó làm phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa đóng sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên trong viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng chí Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại ném ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học đi thôi”…


Cứ cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền, người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.
Trong thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại giữa ta và Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng tôi ở Sứ quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca liên lạc VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ thị từ trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự động đối phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại giao báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng chí Vĩnh ở đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai muốn sang thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong khi lương Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990, đồng chí Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô la một tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).
Do đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế, tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao đoàn rất coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc, sau khi đi chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào trưởng đoàn ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng đến mời trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất trước mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để chào từ biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và trưởng đoàn ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn biệt. Trong suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm đến 60 bài diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng nghiệp. Tuy ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị Đại sứ đại diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau, 60 bài đòi hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông Đại sứ Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu không lần nào giống lần nào”.
Có chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi, nhưng khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta thông báo cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi ngài mới đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên đã không đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi gặp mặt từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”. Cái khó là trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói xấu ông ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để nói, cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta lên đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là được.
Mặc dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng không ưa gì một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi, nhưng cũng vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh của họ hay dịp các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi trọng thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.
Rõ ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nhưng không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra những chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.
Cái lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết thúc hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một công viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc đến nói với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm khác đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát biểu ý kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi, còn nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải người khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả lại tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói: “Sẽ không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại đi vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông Đại sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ Việt Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”. Trong khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa chưa vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở bàn số Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ trống, thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài vườn hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai tiệc, chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng không nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi, chúc sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng và tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi người mới bắt đầu cầm đũa.
Trong thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc thì để giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu khích đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp báo và tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt Nam”. Một nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn theo tình báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói: “Việc chúng tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài thì chúng tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào đánh khắp nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết gì đâu!”. Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về ngài Đại sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông ta không đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn ngoại giao có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi cho Sứ quán Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi có thái độ “tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy. Nhưng tôi nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì vậy tôi cũng không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có phải ông Đại sứ Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không, mà khi tổ chức chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời tôi?).

Những Bí Ẩn Trong Quan Hệ Trung - Việt


Những Bí Ẩn Trong Quan Hệ Trung - Việt 

Trần Nam 

TN - Tờ Văn Hối báo, ở Hong Kong, nhắc lại câu nói của Đặng Tiểu Bình "dạy cho Việt Nam một bài học" hồi 1979, tờ này nói Trung Quốc cần "giảng cho Việt Nam một bài về thế nào là đồng thuận."  Trước bối cảnh quan hệ Trung - Việt càng lúc càng phức tạp, bài học Đặng Tiểu Bình lần thứ hai có khả năng xảy ra. Tác giả gửi lại bài nghiên cứu viết từ 2004 liên hệ đến sự kiện họ Đặng đã "dạy cho Việt Nam bài học thứ nhất" để độc giả nhận định. 
Cách đây gần 25 năm (*), đúng vào ngày 17 tháng 2 năm 1979. Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tràn xuống các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam. Hổ trợ bởi trọng pháo và xe tăng, bộ binh Trung Quốc đã thọc sâu hơn 8 cây số, chiếm giữ các vùng thuộc tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Ngày 5 tháng 3, mười chín ngày sau đó quân đội Trung Quốc bắt đầu rút lui, để lại sau lưng các làng mạc đã bị phá họai và tiêu hủy tang thương. Đặng Tiểu Bình tuyên bố, chiến dịch dạy cho Hà Nội một bài học chính thức chấm dứt.
Trong suốt những năm 1980, quan hệ Bắc Kinh - Hà Nội chuyển sang giai đoạn chiến tranh lạnh, mà Hà Nội đã từng gọi là cuộc chiến tranh phá hoại muôn mặt. Hà Nội cáo buộc Trung quốc đã liên tiếp thực hiện các hoạt động xâm lấn, các hoạt động tình báo và gây rối bao gồm việc thả mìn trên sông, và một số vùng biển. Quân đội Trung quốc cũng đã bắn trọng pháo qua các vùng lân cận, tìm cách phá hủy mùa màng ở các vùng miền núi, các trạm liên lạc và giao thông....Lo sợ cuộc xâm chiến lần thứ hai có thể xảy ra, Hà Nội đã dàn hơn nữa triệu quân (500,000.00) dọc theo các tỉnh phía Bắc, đặt quân đội trong tình trạng báo động.
Ngược lại, Trung Quốc cũng đã trải hơn bốn trăm ngàn quân (400,000.00) đóng ở các vùng biên giới, liên tục thao dượt quân sự trên các vùng đảo Hải Nam và không ngừng gia tăng áp lực quân sự về phía Hà Nội.
Mối bất hoà đôi bên đã âm ỉ từ lâu. Theo Hà nội, qua cuốn bạch thư công bố 1979 thì Bắc Kinh đã chèn ép Hà Nội trên một số lãnh vực và hứa hẹn thì nhiều nhưng chẳng cho bao nhiêu. Tuy nhiên vì cầu cạnh viện trợ trong cuộc chiến trước 1975 nên Hà Nội đành ngậm bồ hòn. Tháng 4 năm 1965, khi chiến sự tại Việt Nam đang trên đà leo thang, Lê Duẩn, lúc công du tại Bắc Kinh đã kêu gọi Bắc Kinh gia tăng viện trợ quân sự không những vật chất mà luôn cả nhân sự nữa.
Lê Duẩn: Chúng tôi cần nhiều phi công tình nguyện, bộ đội tình nguyện và các tình nguyện viên khác, bao gồm cả đơn vị thuộc cầu cống và đường xá.
Liu Shaoqi: Chúng tôi chủ trương yễm trợ quý quốc hết sức mình. Chúng tôi sẽ viện trợ bất cứ điều gì Việt nam cần và chúng tôi đang trong vị trí chuẩn bị điều này. Nếu quý quốc không mời, chúng tôi sẽ không đến. Tuy nhiên nếu mời quân đội Trung Quốc vào Việt Nam thì chúng tôi sẽ gửi quân. Mọi chuyện tùy thuộc vào quý vị.
Lê Duẩn: Chúng tôi mong muốn phi công tình nguyện Trung quốc đến Việt nam để thực hiện bốn nhiệm vụ sau: làm hạn chế việc Mỹ thả bom ở các khu vực phía Nam thuộc vĩ tuyến 19 hoặc 20, làm nhiệm vụ bảo vệ Hà nội, bảo vệ các điểm giao thông trọng yếu, và làm tăng tinh thần của nhân dân Việt Nam. (1)
Tuy nhiên đến khi Hà nội chính thức yêu cầu gửi phi công yểm trợ thì phía Trung Quốc qua nội dung bức thư hồi tháng 7 năm 1965 lại trả lời là : thời điểm chưa thuận tiện để phi công Trung quốc sang chiến đấu tại Việt Nam. (2)
Cũng trong lần tiếp kiến tháng 6 năm 1973, giữa Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị với Chu Ấn Lai. Khi Việt nam đặt lại vấn đề viện trợ nhà máy lọc dầu mà Trung Quốc đã hứa hẹn trước đó, Trung Quốc đã tìm cách từ chối khéo.
Lê Duẩn: Chúng tôi muốn có nhà máy lọc dầu đa dạng với lưu lượng sản xuất cở 3 triệu tấn mỗi năm để chúng tôi có thể sản xuất xăng dầu, nhựa. Thủ tướng Chu lần trước có cho biết là nhà máy loại này có thể sản xuất ra hàng trăm sản phẩm khác nhau. Tôi rất sung sướng và đã trình bày lại Bộ Chính Trị. Ai nấy đều phấn khởi cả vì đây là một viện trợ vô giá. Tuy nhiên sau đó được biết là phía Trung Quốc chỉ có thể giúp chúng tôi sản xuất vài loại dầu thôi, vì vậy tôi hết sức thất vọng. Lần này, tôi đặt vấn đề trở lại, hy vọng Chủ tịch Mao có thể tặng Việt nam nhà máy này. Nhà máy này hết sức quan trọng đối với chúng tôi, mong là lần này tôi không bị thất vọng.
Chu Ấn Lai: Tôi thực sư đã không cẩn thận khi trình bày chuyện trên lần trước. Tôi quá hồ hởi và đã bị hố từ phía nhà máy lọc dầu Chân Trời Đỏ. Tôi cũng đã nói chuyện này với bên phiá bạn Phi Châu nữa, kể cả vua Haile Selassie của nước Ethiopia. Bây giờ thì tôi hiểu là điều này không dễ dàng thực hiện đâu. Người lãnh đạo về dự án trên đã chết rồi, hơn nữa chúng tôi chưa thành công trong việc giải quyết các phế liệu từ nhà máy. Chúng tôi cố gắng hết lòng, nếu thất bại có thể phải gửi cán bộ ra ngoại quốc để học hỏi thêm. Những vấn đề khác như dùng phế liệu để nuôi cá, nuôi vịt hoặc làm phân bón đều không thành công. Tôi được báo cáo lại là ở Canada họ đã phải đốt cháy phế liệu này, và riêng Nhật vẫn chưa tìm ra cách giải quyết. Làm thế nào mà chúng ta có thể hơn các nước khác được ? Mọi chuyện đều tạo dựng ra bởi đám ngườI xấu cả......
Lê Duẩn: Tôi phải cho Thủ tướng biết điều này, là phía ngườI Nhật đã đồng ý viện trợ chúng tôi nhà máy có thể sản xuất đến 4 tấn hàng. Tuy nhiên chúng tôi mong muốn được giúp đỡ từ phía Trung quốc hơn.
Chu Ấn Lai: Họ có nói tốn phí bao nhiêu không?
Lê Duẩn: Không, nhưng họ cho biết là sẽ gửi chuyên viên đến để khảo cứu và sau đó sẽ tiến hành việc xây dựng nhà máy. (1)
Trung Quốc tiết lộ là kể từ năm 1965 đến 1973 đã có hơn ba trăm ngàn (300,000.00) quân Trung Quốc hiện diện tại Bắc Việt, chưa kể những phí tổn mà Bắc Kinh đã phải chi tiêu riêng cho việc tiếp tế vũ khí, đạn dược, thuốc men và thực phẩm xuyên qua ngõ Cam Bốt cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Khi quân đội Trung Quốc rút khỏi Hà Nội hồi cuối tháng 8 năm 1973, số tử vong của quân Trung Quốc đã có hơn 1000 người và có tới 4200 người bị thương tật. (3)
Trong cuộc trao đổi giữa Mao Trạch Đông với Phạm Văn Đồng và Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh). Bắc Kinh cho biết đã phải trả tiền lộ phí cho Sihanouk lên đến hơn 20 triệu mỹ kim mỗi năm.
Mao Trạch Đông: Cũng cần phải trả tiền lộ phí, và điều này rất cần thiết.
Phạm Văn Đồng: Chúng tôi phỏng chừng số tiền này còn lớn hơn tiền viện trợ của Mỹ
Mười Cúc: Trước kia, Mỹ viện trợ cho Cam Bốt 20 triệu mỹ kim một năm. Bây giờ số tiền Trung Quốc trả cho Sihanouk chi tiêu lộ phí và mua lúa gạo đã hơn 20 triệu rồi. Bằng cách giúp đỡ chúng ta, Sihanouk vừa hưởng lợi vừa được tiếng tốt.
Phạm Văn Đồng: Sihanouk cũng được lợi về mặt quân sự vì chúng ta đã phòng ngự dùm Cam Bốt mặt phiá đông kề biên giới của Nam Việt Nam. (4)
Trung quốc phải trả tiền không những riêng cho Sihanouk mà còn luôn cả Lon Nol nữa khi mượn đất Cam Bốt để vận chuyển và tiếp tế vũ khí cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Cuộc tiếp kiến giữa Chu Ấn Lai, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Lê Thanh Nghị tại Bắc Kinh hồI tháng 7 năm 1973 cũng đề cập đến vấn đề này:
Lê Duẩn: Những người anh em Cam Bốt đã có những tiến bộ đáng kể, họ đang đạt nhiều thắng lợi.
Chu Ấn Lai: Cũng vẫn còn nhiều trở ngại. Tôi nhớ là năm ngoái khi Lon Nol qua Bắc Kinh để dự lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày quốc khánh Trung Quốc đã gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng. Lúc đó Lon Nol vẫn còn nhiều quyền lực lắm, ông ta đang kiểm soát tất cả các cuộc vận chuyển hàng tiếp tế qua miền Nam Việt Nam.
Phạm Văn Đồng: Chúng ta đã không dự phòng điều này, tuy nhiên cũng đáng đời Lon Nol
Chu Ấn Lai: Sự việc luôn luôn xảy ra bất ngờ. Lúc đó Việt Nam đã xây dựng được căn cứ quân sự bí mật tại Cam Bốt, chúng tôi chưa biết nhưng Lon Nol lại biết, vì vậy khi ông ta đòi phải trả tiền cho việc mượn đường vận chuyển hàng tiếp tế qua ngõ Cam Bốt, Trung Quốc cũng đã phải đóng cho ông ấy. (1)
Liên hệ giữa Liên Sô và Trung Quốc cũng góp phần ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung - Việt. Sau cuộc rạn nứt về ý thức hệ năm 1963, Trung Quốc và Liên Sô đều muốn lôi kéo Hà Nội về phía mình. Năm 1964, khi Khrushcev bị lật đổ, Chu Ấn Lai và phái đoàn Trung Quốc đã viếng thăm điện Cẩm Linh. Tại đây, các nhà lãnh đạo Cẩm Linh đã đề nghị Bắc Kinh nên lật đổ Mao Trạch Đông, cũng giống như họ đã làm đối với Khrushcev. Chu Ấn Lai giân dử phản ứng lại và cho rằng Liên Sô đã nhục mạ chủ tịch Mao, nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và chính cá nhân của họ Chu (5)
Sau chuyến đi đó, họ Chu đã thố lộ cùng với Hồ Chí Minh và Lê Duẫn là: những nhà lãnh đạo mới của Liên Sô chẳng có thay đổi gì cả ngoại trừ chủ nghĩa của Khrushcev.
Trung quốc hoàn toàn muốn Hà nội đi theo quỹ đạo của họ nhằm chống lại Liên Sô. Ngược lại, Liên Sô cũng không ngừng gia tăng ảnh hưởng của Liên Sô lên Hà Nội. Trong cuộc viếng thăm Hà nội hồi tháng 2 năm 1965 cùng với một số chuyên viên về hoả tiển, bộ trưởng ngoại giao Nga đã kêu gọi Hoa kỳ nên rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và hứa hẹn sẽ gia tăng viện trợ cho cuộc chiến của Bắc Việt.
Hà nội có khuynh hướng thân thiện với Moscow hơn sau cuộc đảo chánh Khrushcev, vì lúc đó Hà nội cần các kỷ thuật cao về phòng không để đối đầu với các cuộc oanh tạc từ phía Hoa Kỳ, mà Trung Quốc đã không đủ khả năng cung ứng. Lo sợ Hà Nội chạy theo Liên Sô, chính Đặng Tiểu Bình đã bí mật đến Hà nội để hứa hẹn là sẽ viện trợ 1 tỷ dollars mỗI năm cho Việt Nam.
Hà nội cũng cho là Trung Quốc đã cố tình tìm cách ngăn chận và làm chậm trể hàng viện trợ từ phía Liên Sô khi phải nhờ vận chuyển hàng đi qua Trung quốc. Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trung quốc Qiao Guanhua than phiền với đại sứ Bắc Việt tại Bắc kinh hồi tháng 5 năm 1967 về vấn đề hàng viện trợ của Nga như sau:
Qiao Guanhua: Tôi có một vấn đề cần phải bàn thảo cùng với đại sứ. Đó là chuyện liên hệ đến hàng viện trợ của Liên Sô.Ngày 6 tháng 5 năm 1967, chúng tôi đã được thông báo từ Hà nội và luôn cả tại Bắc kinh từ thứ trưởng Nghiêm Bá Đức và đồng chí Phạm Thanh Hà là trong hai tháng 5 và 6, phía Liên Sô sẽ viện trợ 12 chiếc Mig-17 và 12 Mig-21 cho Việt Nam và quý quốc cần chúng tôi giúp đở cho việc vận chuyển qua Trung Quốc. Tuy nhiên ngày 9 tháng 5 khi đồng chí Pham Thanh Hà chính thức cho biết là sẽ nhờ vận chuyển 24 chiếc Mig này qua đường tàu hỏa. Thì ngược laị, phía Liên Sô thông báo với chúng tôi hôm ngày 8 là họ sẽ sử dụng máy bay AN-12 bay trên không phận Trung quốc để chở 24 chiếc Mig này. . . . ..Phía Trung Quốc đã nghiên cứu đề nghị này rất kỷ lưởng, chúng tôi quyết định đồng ý đề nghị vận chuyển bằng đường xe lửa của đồng chí Pham Thanh Hà, nhưng không chấp nhận đề nghị từ phía Liên Sô chuyên chở bằng đường hàng không. (1)
Sau 1975, mối bất hòa càng trở nên sâu đậm. Hàng loạt các biến cố xãy ra làm đổ dầu thêm lữa đã dẫn đến cuộc tấn công biên giới phiá Bắc. Trung quốc tỏ thái độ không bằng lòng và công khai phản đối Hà nội trước một số sự kiện như : Vụ Hà Nội đối xử tệ bạc với người Hoa năm 1978, vụ chiếm Nam Vang năm 1978 , vụ tranh dành chủ quyền ranh giới phía Bắc, vụ Hà Nội ký hiệp ước hữu nghị và liên minh quân sự với Liên Sô 1978, và nhất là các cuộc trạm chán ở biển Đông về chủ quyền đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vùng đảo theo lượng giá của Cục Địa Chất và Khoáng Sản Trung Quốc thì chỉ riêng Trường Sa cũng đã có trử lượng tới 17.7 tấn dầu khí và hóa chất, đứng hàng thứ tư lớn nhất về trử lượng trên thế giới và gần gấp hai lần trử lượng của quốc gia Kuwait. (7)
Tháng 1 năm 1974, Hải Quân Trung Quốc bất thần tấn công và chiếm giữ các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa do Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ. Năm 1975, khi làm chủ được Saigon, Hà Nội đã lập tức đem quân ra chiếm đóng tổng cộng được 21 đảo nhỏ thuộc khu vực Trường Sa, vùng đảo mà Trung Quốc đã chính thức xác nhận chủ quyền trước năm 1975. Hà Nội bắt đầu đòi chủ quyền các vùng đảo này khi đã hoàn toàn chiếm được miền Nam Việt Nam . Trước đó, khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, Hà Nội đã im lặng để được nhận viện trợ quân sự. Năm 1958, chính Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng đã xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Sau cuộc giao tranh ở biên giới Trung - Việt năm 1979, đến năm 1988, Hải Quân Trung Quốc và Việt Nam lại trực tiếp đụng độ một lần nữa trên biển Đông, tại vùng đá ngầm Johnson thuộc khu vực Trường Sa. Cuộc chạm trán lần này đã làm Hà Nội chìm hết hai tầu chiến và thiệt mạng hơn 70 thủy thủ. Hà Nội đã tìm cách tái chiếm được hai trong số sáu đảo san hô đã từng bị Trung Quốc chiếm đóng sau đó. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, Zhu Bangzao họp báo và tuyên bố về sự việc trên như sau:Trung Quốc đòi hỏi Việt Nam phải lập tức rút quân ra khỏi các vùng đảo thuộc chủ quyền của Trung Quốc đã bị Việt Nam chiếm giữ bất hợp lệ, dẹp bỏ những căn cứ xây cất và phải đãm bảo là không để những hành động tương tự xảy ra trong tương lai. (8)
Cùng lúc, những xung đột ở phía biên giới Tây Nam Việt Nam giữa Hà Nội và Nam Vang càng lúc càng tăng cường độ. Các mâu thuẩn về biên giới, cộng với chính sách ngoại giao đối đầu của Pol Pot đã làm CSVN phải tìm cách giải quyết càng sớm càng tốt vì sợ bị nằm trong thế gọng kềm với Trung Quốc và Cam Bốt. Trước khi quyết định tấn công Nam Vang năm 1978, Hà Nội đã tìm nhiều giải pháp để giải quyết những xung đột, kể cả việc mưu sát Pol Pot. (9)
Tháng 9 năm 1977, vài ngày trước khi ra lệnh tấn công vào các làng dọc theo biên giới Miên-Việt, Pol Pot trong lần xuất hiện đầu tiên tại Nam Vang đã công khai xác nhận sự hiện hữu của Đảng CS Cam Bốt, đồng thời trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh cũng vào tháng 9 năm 1977, Pol Pot đã tường trình lại tình hình Miên Việt cho Hoa Quốc Phong.
Pol Pot: Nga Sô, Cu Ba và Việt Nam đang cùng cộng tác để chống lại chúng tôi ở các khu vực biên giới. Chúng tôi nghĩ rằng họ đã cài người của họ nằm vùng trong quân đội của chúng tôi. Ở cấp độ trung ương, họ có năm người, ở cấp sư đoàn có chừng 4 đến 10 người và họ cũng có cán bộ của họ ở các vùng tỉnh khác nữa. Kể từ tháng 9 năm 1975, Việt Nam đã có kế hoạch tấn công Nam Vang, Preyveng và các tỉnh gần biên giới. Họ đã từng ám sát cán bộ lãnh đạo của chúng tôi bằng súng ám sát và thuốc độc. Họ đã nhiều lần bỏ thuốc độc vô thức ăn tuy nhiên chúng tôi may mắn đã không ăn. Thái lan, Nga và Việt Nam cùng chủ mưu. Chúng tôi cũng nắm được tài liệu cho thấy là có cả Hoa Kỳ và Việt Nam cùng cộng tác trong vụ này.......Chúng tôi cũng hiểu là quân đội Việt Nam không còn mạnh nữa, họ bây giờ phụ thuộc nhiều vào hỏa lực mạnh như trọng pháo, xe tăng và máy bay. Bộ đội của họ không còn muốn đánh nhau, nhiều người từ phía Bắc đã lấy thêm vợ ở phía Nam và vì vậy họ không còn ham chiến nữa. Cam Bốt không sợ phải đánh nhau với Việt Nam, nhưng chúng tôi không an tâm trước mối đe dọa liên tục từ họ... (1)
Tháng 4 năm 1975, Hà Nội làm chủ được Saigon. Năm tháng sau, tháng 9 năm 1975, phái đoàn cao cấp đảng CSVN do Lê Duẩn, tổng bí thư đảng chính thức qua Trung Quốc để tham vấn. Trong cuộc hội kiến giữa lảnh đạo hai nước, Đặng Tiểu Bình đã than phiền và đặt vấn đề với Lê Duẩn về một số dư luận bất lợi đối với Trung Quốc:
Đặng Tiểu Bình: Có một vài dấu hiệu không tốt xảy ra trong quan hệ hai nước. Một số là những chuyện đã có từ thời chủ tịch Hồ còn sống. Chúng tôi phải nói thẳng rằng là không lấy làm dể chịu cho lắm khi đọc trên báo chí Việt Namcũng như biết về quan điểm của nhân dân Việt Nam. Sự thật là quý vị đã nói quá đáng về mối đe dọa phương Bắc. Đối với Trung quốc, mối đe dọa phương Bắc chính là sự hiện diện của quân đội Liên Sô ở biên giới phía Bắc, tuy nhiên đối với Việt Nam thì có nghĩa là Trung Quốc.
Lê Duẩn: Chúng tôi không nói như vậy đâu.
Đặng Tiểu Bình: Tôi vẫn còn nhớ cuộc hội kiến giữa chủ tịch Hồ, tôi và thủ tướng Chu Ấn Lai. Ông Hồ có nhắc đến việc này rồi. Lúc đó, chúng tôi có hàng trăm ngàn quân đóng ở Quảng Đông và Quảng Tây. NgườI Việt và quý cán bộ dùng lịch sử để ám chỉ hiện tại, nói đến mối đe dọa từ phương Bắc. Câu hỏi đối với vị trí của Liên Sô cũng được đặt ra. Thủ tướng Chu đã nói thẳng với chủ tịch Hồ là: chính Việt Nam đang đe dọa Trung Quốc. Riêng tôi, tôi đã nói với chủ tịch Hồ là ông có nghỉ rằng chúng tôi đe doạ quý quốc không? Nếu đúng chúng tôi sẽ rút quân hết từ Quảng Đông, Quảng Tây và chuyển lên biên giới Trung - Nga. Lý do chúng tôi muốn có quân đội trú đóng ở đó chỉ vì dự phòng tình huống có thể xảy ra như chiến tranh Triều Tiên trước kia thôi. Chúng tôi phải đề phòng một cuộc tấn công từ phía ngườI Mỹ. Chủ tịch Hồ có cho ông biết về cuộc họp đó không?
Lê Duẩn: Thú thực, chúng tôi không biết gì cả về chuyện này từ phía chủ tịch Hồ. Tuy nhiên tôi có nghe qua về một vở kịch.
Đặng Tiểu Bình: Thời đó đã có một vài bài báo và dư luận làm tổn hại liên hệ đôi bên. Chúng tôi đã cho chủ tịch Hồ biết về quan điểm của chúng tôi. Chủ tịch Hồ đã trả lời là: ông không đồng ý khi cho rằng Việt Nam đe dọa Trung Quốc. Ông Hồ cũng không đồng ý với việc rút quân ra khỏi hai tỉnh này. Tuy nhiên, khi tình thế thay đổi chúng tôi đã quyết định rút quân. Những năm gần đây, sự việc như vậy vẫn tiếp diễn và dường như có chiều hướng gia tăng. Mối đe dọa từ phương Bắc vẫn là luận điệu chính, kể cả trong sách vở của qúy quốc. Chúng tôi cảm thấy không bằng lòng đối với vấn đề này.Quan hệ giữa đôi bên rất rõ ràng, chúng tôi không thôn tính một tất đất nào của quý quốc cả. (1)
Cuộc tiếp kiến giữa Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình sau 1975 đã cho thấy dấu hiệu rạn nứt càng lúc càng trầm trọng. Họ Đặng đã không che đậy và vòng vo giống như các cuộc tiếp kiến trước đó, ông đã bày tỏ sự bất mãn cũa mình đối với Lê Duẫn. Tuy nhiên, phải mất bốn năm sau Đặng Tiểu Bình mới có cơ hội trút hết cơn giận khi ông ra lệnh cho quân đội nhân dân Trung Quốc tràn qua biên giới Hoa-Việt để dạy cho Hà Nội một bài học đẫm máu.
Trần Nam
(*) Bài này viết từ 2004
--------
1)   Việt Nam War- New Evidence on the Vietnam/Indochina Wars.
(2)    R. B. Smith -The Making of a Limited War, 65-66
(3)    Li, "The Indelible Mark on History of Chinese Assistance to Vietnam against the United States"
(4)    Conversation between Mao Zedong and Pham Van Dong, Beijing 17 November, 1968 - Cold War International History Project
(5)   Yu Zban - An unsual visit: Remember Zhou Enlai last visit to the Soviet Union - Party Documents (1992)
(6)    "Secrets of Former Friends," Far Eastern Economic Review (15 June 1979), 38-39.
(7)   Michael Leffer - Chinese Economic Reform and Security Policy, the South China Sea Convention.
(8)   Taiwan Security Research
(9)   Vietnam - Conflict with Cambodia/CIA Facts

Những đặc điểm của chế độ phong kiến phuong Đông và phương Tây



NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN
PHƯƠNG TÂY VÀ PHƯƠNG ĐÔNG[*]
                                                                    Võ Minh Tập
Về quá trình chuyển biến sang chế độ phong kiến.
Sự hình thành chế độ phong kiến, nhà nước phong kiến là cả một quá trình và có hai con đường:
+ Một là, có những nước là chế độ chiếm hữu nô lệ và trong lòng nó ở thời kì cuối đã có mầm mống quan hệ phong kiến, dần dần chuyển sang chế độ phong kiến, nhà nước chiếm hữu nô lệ chuyển sang nhà nước của giai cấp phong kiến như ở đế quốc Đông La Mã (By-giăng-xơ), Trung Quốc, Ấn Độ…
+ Hai là, những nước từ chế độc công xã nguyên thủy đang tan rã, bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên chế độ phong kiến và thiết lập nhà nước phong kiến. Bước nhảy vọt như vậy, trước hết là do yếu tố nội sinh bên trong (Sự phát triển của lực lượng sản xuất và kinh tế, mầm mống của giai cấp và nhà nước). Nhưng một yếu tố khác rất quan trọng là sự tiếp thu ảnh hưởng của chế độ phong kiến của các nước khác như các quốc gia Đông Âu, Triều Tiên, Việt Nam…Trong đó, những cuộc chiến tranh chinh phục giúp cho việc tiếp thu ảnh hưởng ấy một cách nhanh chóng như trường hợp bộ tộc người Giéc man chinh phục đế quốc Tây La Mã, Mông Cổ chinh phục Trung Quốc…
Giữa châu Á và châu Âu, sự hình thành chế độ phong kiến và nhà nước phong kiến có những điểm khác nhau rõ rệt:
Về thời gian.
Chế độ phong kiến hình thành sớm và tan rã muộn hơn phương Tây.
Ở châu Á, chế độ phong kiến hình thành sớm nhất ở Trung Quốc (thế kỉ III TCN). Ở châu Âu, nó được hình thành sớm nhất là thế kỉ V sau công nguyên (Ở Tây Âu). Tuy nhiên trong từng khu vực cũng có những nhà nước phong kiến ra đời muộn như Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kì, Lào… (thế kỉ XII), như ở Đông Âu (thế kỉ VII-X).
Về không gian.
Ở châu Âu, chính thể phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Còn ở châu Á, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng.
Ở Phương đông chế độ phong kiến ra đời sớm là do yêu cầu làm thủy lợi phục vụ nông nghiệp, đoàn kết chông ngoại xâm nên đã hình thành những quốc gia lớn. Còn ở phương Tây, do công cuộc chinh phục của bộ tộc Giéc man đã thúc đẩy quá trình phong kiến hóa, hình thành những thế lực lãnh chúa cát cứ.
Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn tới quán trình phát triển của chế độ phong kiến và nhà nước phong kiến.
Về cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước phong kiến.
Trong chế độ phong kiến có hai giai cấp cơ bản là địa chủ (ở châu Âu gọi là Lãnh chúa hoặc chúa đất) và nông dân (ở châu Âu là nông nô), có phương thức bóc lột đặc trưng là địa tô. Ngoài ra còn có tầng lớp thợ thủ công, tầng lớp thị dân.
Nhưng cũng tương tự như thời cổ đại, cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước phong kiến châu Á và châu Âu có một số điểm rất khác nhau:
Thứ nhất, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế độ phong kiến.
Ở châu Âu, chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời cổ đại. Trong thời phong kiến, chế độ tư hữu ruộng đất không những vẫn như vậy, mà còn phát triển thành tư hữu rất lớn (các lãnh chúa). Hầu hết nông dân mất hết ruộng đất và trở thành nông nô.
Ở châu Á, chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở châu Âu. Hiện tượng phổ biến về ruộng đất của chế độ phong kiến tồn tại quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước (của vua), đồng thời đối với ruộng đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Tư hữu ruộng đất (hầu hết là của địa chủ, một phần nhỏ của nông dân) phát triển chậm.
Tóm lại, trong khi ở châu Âu, ruộng đất hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân (lãnh chúa) thì ở châu Á tồn tại song song sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ phong kiến). Có thể nói, đặc điểm về chế độ sỡ hữu ruộng đất luôn luôn là chìa khóa để đi vào tìm hiểu những đặc điểm khác.
Thứ hai, về định tính và định hình giai cấp. Địa chủ phong kiến là những người có nhiều ruộng đất riêng của mình và bóc lột bằng địa tô.
Lãnh chúa phong kiến ở châu Âu là chủ sở hữu ruộng đất lớn, nguồn lợi thu hầu hết bằng địa tô. Vì vậy, hình ảnh của vị địa chủ phong kiến phương Tây rất nổi, hay nói cách khác, định tính và định hình của giai cấp địa chủ phong kiến ở phương Tây rất rõ ràng và đậm nét. Nông nô phương Tây hoàn toàn không có ruộng đất, phải hoàn toàn lĩnh canh ruộn đất của lãnh chúa và nộp địa tô cho chủ. Người nông nô đúng 100% là người tá điền, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Ở phương Đông, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần được phân phong cho quý tộc quan lại (thường ruộng đất loại này, người được phong không có quyền mua bán), một phần được cấp cho nông dân theo định kì cày cấy để nhà nước thu thuế, như chế độ quân điền ở Trung Quốc, Việt Nam, chế độ ban điền ở Nhật Bản…từ đó có hai hệ quả:
+ Địa chủ phong kiến không chỉ bóc lột bằng địa tô từ số ruộng đất tư của mình, mà còn bóc lột bằng thuế được hưởng từ ruộng đất được phân phong.
+ Người nông dân tuy phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và nộp tô, nhưng cũng nhận được một phần ruộng đất của nhà nước và phải nộp thuế. Một số ít nông dân còn có ruộng đất riêng để cày cấy. Chính vì vậy, người nông dân phương Đông còn có quyền tự do thân thể hơn người nông nô phương Tây-người hoàn toàn bị lệ thuộc vào lãnh chúa.
Như vậy, định tính và định hình của giai cấp ở phương Đông không sắc nét như ở phương Tây.
Thứ ba, trong khi châu Âu cho đến thế kỉ XIV, văn hóa, giáo dục vẫn bị giáo hội lũng đoạn kìm hãm, cả xã hội sống trong vòng lạc hậu, tối tăm, thì ở phương Đông, Trung Quốc, Ấn Độ, Ả Rập là những trung tâm văn minh lớn của thế giới, với những thành tựu to lớn về văn học, triết học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên…với những phát minh quan trọng của Trung Quốc (Giấy, in, thuốc súng, la bàn). Khác hẵn với phương Tây, tập đoàn vua chú phong kiến ở phương Đông thường là những nhà tri thức lớn trong xã hội. Trường hợp vua không biết chữ học ít học thức chỉ là cá biệt.
Trong dân gian cũng có không ít người có học thức. Từ rất sớm phong cách văn minh, lịch sử, tao nhã đã trở thành nếp sống bình thường của người người phương Đông. Chính người phương Tây đã học tập nếp sống văn minh đó từ những cuộc viễn chinh sang phương Đông  của thập tự chinh cuối thế kỉ XI-XIII.
Về tư tưởng,  nhìn chung cả phương Đông và phương Tây đều lấy tôn giáo làm  cơ sở lý luận cho chế độ thống trị. Tuy nhiên, cũng có sự khác biệt rõ rệt:
Ở Phương Đông, chế độ quân chủ chuyên chế rất mạnh và có nhiều tôn giáo trong cùng một nước. Các tôn giáo đều không có tổ chức giáo hội mang tính quốc tế. Mặc dù vậy nhưng gần như suốt trong quá trình tồn tại của chế độ phong kiến, nhà nước luôn sử dụng những giáo lý của tôn giáo để xây dựng và cũng cố một nhà nước quân chủ chuyên chế và bành trướng xâm lược ra bên ngoài như Nho giáo (Trung Quốc), Hồi giáo (Ấn Độ),…
Ở phương Tây, Đạo cơ đốc-Thiên chúa giáo ra đời đầu công nguyên, nhưng sang thời phong kiến, Thiên chúa giáo đã trở thành một thế lực rất mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho vương quyền phong kiến phương Tây, giáo lý-hệ tư tưởng của nó mà Tòa án giáo hội thật sự là công cụ tinh thần của tập đoàn phong kiến thế tục và nhà thờ để thống trị quần chúng, mặc khác, giáo hội Thiên chúa luôn luôn tìm cách can thiệp, chi phối chính quyền phong kiến để cũng cố địa vị và quyền lợi của giáo hội. Có thể nói, ở phương Tây, sự kết hợp giữa thần quyền và vương quyền đã tạo nên sức mạnh không phải là ở cấp số cộng mà là cấp số nhân của các thế lực áp bức và bóc lột trong xã hội.
Như vậy, Ở phương Đông nhìn chung tôn giáo chỉ là lực lượng hổ trợ cho giai cấp thống trị, chứ không trở thành lực lượng chi phối, can thiệp công khai, chặt chẽ được chính quyền nhà nước phong kiến rõ nét như ở phương Tây.
Nhìn chung, kinh tế tự cung tự cấp giữa vai trò chủ yếu trong chế độ phong kiến. Nhưng đến cuối thời kì phong kiến ở phương Tây kinh tế tư bản chủ nghĩa nảy sinh và phát triển, đưa phương Tây vượt lên hẳn phương Đông. Các nước phương Đông (trừ Nhật Bản) dần dần trở thành thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Về hình thức và chức năng của nhà nước.
Ở phương Tây, hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến và bao trùm là phân quyền cát cứ với những biểu hiện và được quyết định bởi những nguyên nhân khác nhau. Có thể kể hai nguyên nhân chính sau đây:
+ Nguồn gốc xâu xa là đế quốc Frang  được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm lược và được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiếp tạm thời không vững chắc. Trong phạm vi Tây Âu và trong phạm vi từng nước, các cộng đồng dân cư ở vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau. Do đó đều có khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khoie ràng buộc của chính quyền trung ương.
+ Nguyên nhân cơ bản, có tính quyết định là yếu tố kinh tế. Trong đó, trước hết phải nói đến chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của phong kiến được hình thành (chế độ phân phong, thừa kế, bảo hộ ruộng đất…).
Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối-thời kì suy vong của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha…còn ở một số nước như Đức, Ý, tình trạng cát cứ phong kiến tồn tại suốt cả chế độ phong kiến. Tính chuyên chế  không cao như ở phương Đông. Ngoài ra còn có hình thức chính quyền tự trị thành phố là chính quyền cục bộ, tồn tại trong những khoảng thời gian không lâu. Nó là chính quyền cộng hòa phong kiến, nằm trong phạm trù nhà nước phong kiến.
Ở phương Đông, hình thức, kết cấu của nhà nước phong kiến là trung ương tập quyền, phát triển thành hình thức chính thể quân chủ chuyên chế và mang tính chuyên chế cực đoan. Chính thể này tồn tại trong suốt thời kì chế độ phong kiến. Trong chính thể đó, vua có uy quyền tuyệt đối, là đấng tối cao vô thượng và được thần thánh hóa là thiên tử (con trời), thiên hoàng (vua nhà trời)…Chính thể quân chủ chuyên chế phương Đông hình thành và phát triển do những yếu tố sau:
+ Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc nhà vua và sự tồn tại của các công xã nông thôn.
+ Do đòi hỏi của cuộc xâm lược bành trướng hoặc trong công cuộc chống chinh phục.
+ Do tập quán chính trị và tâm lý chính trị truyền thống. Nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến là sự kế thừa và phát triển chính thể quân chủ chuyên chế chủ nô.
+ Do truyền thống kết hợp chặc chẽ giữa vương quyền và thần quyền.
Cũng như trong thời kì chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến ở phương Đông còn có một chức năng đặc biệt và rất quan trọng, chức năng tổ chức công cuộc trị thủy và thủy lợi.
Dù phương Đông và phương Tây có những điểm khác nhau, nhưng bản chất của nhà nước phong kiến dù ở đâu cũng chỉ là một. Nhà nước phong kiến là công cụ của giai cấp phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị.
Tài liệu tham khảo
1. Lương Ninh (cb, 2003), Lịch sử thế giới trung đại, Nxb.GD.
2. Chiêm Tế (1977), Lịch sử thế giới trung đại, tập 1-2, Nxb.GD.
3. Cao Liên (2003), Phát thảo lịch sử thế giới, Nxb.Thanh niên.
4. Vũ Dương Ninh (cb, 2005), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb.GD.
5. Vũ Dương Ninh (cb, 2000), Một số chuyên đề Lịch sử thế giới, Tập 1, Nxb.ĐHQG, H.
6. Phạm Điềm, Vũ Thị Nga (cb, 2007), Giáo trình Lịch sử nhà nước và Pháp luật thế giới, Nxb. CAND, HN.